5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Show

Trước thềm Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) diễn ra tại Anh từ 31/10 đến 12/11, chuyên đề “Những bước dịch chuyển của thế giới nhằm chống biến đổi khí hậu” đưa ra cái nhìn toàn cảnh về những nỗ lực của thế giới kiềm chế khí hậu nóng lên, vì sức khỏe của bà mẹ Trái đất, vì tương lai của sự sống trên toàn hành tinh.

Là một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, tuy phát triển sau nhiều quốc gia trên thế giới, song Việt Nam đã nỗ lực đưa ra nhiều giải pháp thích ứng, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu. Việt Nam còn là một trong những nước đang phát triển đầu tiên trên thế giới đưa nghĩa vụ thực hiện giảm phát thải khí nhà kính đã cam kết vào hệ thống pháp luật để toàn dân thực hiện. Sự có mặt của đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam do Thủ tướng Phạm Minh Chính dẫn đầu tại Hội nghị thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) thể hiện sự chung tay của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế ứng phó biến đổi khí hậu.

Những tác động nặng nề của biến đổi khí hậu

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu do có bờ biển dài. Nếu nước biển dâng 1 mét, 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 10% diện tích đồng bằng sông Hồng sẽ bị ngập, ảnh hưởng trực tiếp đến 20-30 triệu người dân.

Tác động của biến đổi khí hậu đến Việt Nam rất nghiêm trọng, là nguy cơ hiện hữu đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững. Theo Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu, khi nước biển dâng cao 1m, ước chừng 5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP, 10,9% vùng đô thị, 7,2% diện tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp ở Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng.

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, chỉ trong 10 năm gần đây, các loại thiên tai như: bão, lũ, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn… đã gây thiệt hại đáng kể, làm chết và mất tích hơn 9.500 người, thiệt hại về tài sản ước tính 1,5% GDP/năm.

Đánh giá thực trạng tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam, GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu phân tích: Khi nói đến biến đổi khí hậu chúng ta cần xét đến 2 quá trình là quá trình diễn ra từ từ như nhiệt độ tăng và nước biển dâng, quá trình xảy ra nhanh là sự gia tăng các cực đoan khí hậu.

GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu.

GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu.

“Ở Việt Nam, nhiệt độ trung bình năm đã tăng 0,89°C trong thời kỳ 1958-2018, riêng giai đoạn 1986-2018 tăng 0,74°C; mực nước biển tăng 2,74mm/năm. Biến đổi khí hậu làm gia tăng mức độ phơi bày và tính dễ bị tổn thương. Theo đó, các hiện tượng khí hậu diễn ra chậm như nhiệt độ tăng, nước biển dâng có xu hướng tác động đến sinh kế và có thể dẫn đến việc di cư lâu dài; điều này ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ phơi bày trước hiểm họa và tính dễ bị tổn thương của người dân địa phương”.

Theo GS Trần Thục, dữ liệu quan trắc cho thấy các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan đã có xu thế gia tăng cả về cường độ và tần suất: mưa cực đoan tăng ở hầu hết các vùng của cả nước; số ngày nắng nóng tăng, số ngày rét đậm, rét hại giảm; hạn hán xảy ra thường xuyên hơn; số lượng các cơn bão mạnh trên Biển Đông có xu thế tăng. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, ở Việt Nam đang chứng kiến những dấu hiệu bất thường của thời tiết, khí hậu.

Một thí dụ đơn cử như, năm 2014 vào tháng Giêng - giữa mùa khô nhưng các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi lại có một đợt lũ cao bất thường, thậm chí cao hơn cả mùa mưa năm sau - trong mùa khô có lũ lớn và trong mùa mưa lũ nhỏ. Những năm gần đây, mưa ở miền trung khá bất thường, có năm rất nhiều như 2020, có năm rất ít như năm 2018 - 2019. Năm 2016 xuất hiện đợt mưa tuyết chưa từng gặp ở nước ta, đỉnh Ba Vì - Hà Nội, rừng quốc gia Vụ Khoang - Hà Tĩnh cũng có tuyết - điều chưa từng được ghi nhận trước đây.

Theo phân tích của các chuyên gia, thực tiễn biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong những năm vừa qua diễn ra nhanh hơn so với dự kiến. Nhìn lại đối chiếu với những nhận định trước đây, thời điểm trước năm 2010, khởi đầu của nhiều nghiên cứu về thiệt hại của biến đổi khí hậu trên thế giới, nước ta vẫn là quốc gia chịu tác động rất nặng nề của biến đổi khí hậu.

Trong những năm gần đây, nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu cũng đã chỉ ra nhiều vấn đề cần phải lưu tâm, chẳng hạn năm 2017 là năm có số lượng các cơn bão ảnh hưởng tới nước ta nhiều bất thường (16 cơn bão), theo tính toán của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai và Tổng cục Thống kê thiệt hại khoảng 38,7 nghìn tỷ đồng tương đương 2,7 tỷ USD.

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất thấy rõ nhất là đối với ngành nông nghiệp. Ở Việt Nam với đặc trưng của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa Đông Nam Á, trong sản xuất nông nghiệp, lúa là loại cây trồng chủ lực, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sản xuất lúa hàng năm chiếm tỷ trọng lớn nhất. Theo tính toán của Tổng cục Thống kê năm 2018 trung bình cho giai đoạn 2011-2016 khoảng 66,1%. Riêng năm 2016 hạn hán và xâm nhập mặn ảnh hưởng đến 527,7 nghìn ha lúa bị thiệt hại, trong đó khoảng 44% diện tích bị thiệt hại hoàn toàn. Đối với các loại cây trồng khác như hoa màu, các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày cũng bị ảnh hưởng, năng suất cây trồng giảm khoảng 50% do tác động của biến đổi khí hậu. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu còn tác động đến chăn nuôi, lâm nghiệp, đa dạng sinh học, cháy rừng, các hệ sinh thái đất ngập nước, nuôi trồng thủy sản…

Biến đổi khí hậu còn ảnh hưởng tới hoạt động giao thông vận tải, theo nghiên cứu của kịch bản biến đổi khí hậu nếu mực nước biển dâng cao 1m có khoảng 9% hệ thống đường quốc lộ, 12% hệ thống đường tỉnh lộ, 4% hệ thống đường sắt sẽ bị ảnh hưởng, trong đó tập trung nhiều nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu long chiếm 28% đường quốc lộ và 27% đường tỉnh lộ của cả nước, tiếp đến là các tỉnh ven biển miền trung và đồng bằng sông Hồng.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến phát triển đô thị, các khu công nghiệp và nhà ở, mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào từng vùng, từng địa phương và từng vị trí theo địa hình phân bố. Nghiên cứu tổng thể cho thấy khu vực ven biển chịu tác động chính của bão, vùng miền núi chịu tác động của lũ quét, lốc xoáy, sạt lở, vùng trung du và đồng bằng chủ yếu là ngập lụt, lốc xoáy, mưa đá.

Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến du lịch, thương mại, năng lượng… và nhiều hoạt động kinh tế khác trực tiếp hay gián tiếp. Những ảnh hưởng này trong những năm vừa qua đã biểu hiện khá rõ nét, mỗi ngành, lĩnh vực đều có thể cảm nhận và đánh giá được ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Đối với công nghiệp, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu khí hậu sẽ tác động đến ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến những sản phẩm nông nghiệp. Trong trường hợp nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tiêu thụ năng lượng kéo theo nhiều hoạt động khác tăng theo như tăng công suất nhà máy phát điện, tăng sử dụng các thiết bị làm mát, ảnh hướng tới an ninh năng lượng quốc gia. Những nghiên cứu theo kịch bản nước biển dâng cho thấy, nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ làm cho hầu hết các khu công nghiệp ven biển bị ngập,mức thấp nhất trên 10% diện tích, mức cao nhất khoảng 67% diện tích.

Đối với bình đẳng giới, những nghiên cứu gần đây cho thấy biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới công việc của phụ nữ, nữ giới là nhóm dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng tới sức khỏe, kinh tế hộ gia đình và vấn đề di cư. Thực trạng này đã và đang thể hiện ngày càng rõ ở những vùng chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu như vùng đồng bằng sông Cửu Long và khu vực ven biển, khu vực nông thôn.

Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, chúng ta cũng phải nhìn nhận toàn diện hơn đối với những ảnh hưởng có tính tích cực, chẳng hạn trong sản xuất nông nghiệp đối với lượng mưa, bên cạnh những tác động tiêu cực, cũng sẽ có những vùng có tác động tích cực. Trong sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và mùa vụ do biến đổi khí hậu cần phải được phân tích kỹ lưỡng để thầy được những mặt tích cực và tiêu cực lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí cơ bản để đánh giá.

Và nỗ lực chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu

Việt Nam tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) từ năm 1994. Là một nước đang phát triển, chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu Việt Nam đã tích cực chủ động triển khai nhiều hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một Bên tham gia UNFCCC, Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu. Nhằm góp phần tích cực trong việc bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất cũng như thực hiện nghĩa vụ của một Bên nước đang phát triển tham gia UNFCCC, Việt Nam đã sớm gửi Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC) vào năm 2015 cho UNFCCC và sau đó đã gửi bản cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định vào năm 2020.

Việt Nam cũng là một trong 20 quốc gia đầu tiên hoàn thành rà soát, cập nhật NDC, đồng thời đã điều chỉnh tăng đáng kể mức đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2030 của đất nước.

Bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030 Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương 83,9 triệu tấn CO2 và lên tới 27%, tương đương 250,8 triệu tấn CO2 (bằng tổng phát thải quốc gia của Việt Nam năm 2014) khi có hỗ trợ quốc tế thông qua các hợp tác song phương, đa phương và đầu tư của doanh nghiệp.

So với bản NDC nộp năm 2015, NDC cập nhật của Việt Nam đã tăng nỗ lực giảm nhẹ phát thải khí nhà kính thêm 2%, phù hợp với mức tăng chung của 75 quốc gia đã nộp NDC cập nhật đến tháng 12/2020 là 2,8%.

Mới đây, Việt Nam đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu chung nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của biến đổi khí hậu thông qua việc tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào hệ thống chiến lược, quy hoạch.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang xây dựng dự thảo Đề cương chi tiết Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050.

Các lực lượng tại Yên Bái tham gia Tết trồng cây Xuân Tân Sửu 2021. (Ảnh: THANH SƠN)

Các lực lượng tại Yên Bái tham gia Tết trồng cây Xuân Tân Sửu 2021. (Ảnh: THANH SƠN)

Theo ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam được đánh giá là một quốc gia chịu tác động nhiều bởi biến đổi khí hậu. Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều kế hoạch, chương trình hành động để thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

Về thích ứng với biến đổi khí hậu, Việt Nam đang thực hiện một loạt hoạt động để thích ứng, coi thích ứng là vấn đề sống còn, như: vấn đề đồng bằng sông Cửu Long, ven biển, phòng, chống thiên tai, đó là các hoạt động ứng xử trước mắt với thiên nhiên còn ứng xử lâu dài với thiên nhiên thí dụ như nước biển dâng, Việt Nam cũng đã có những chương trình hoạt động được triển khai.

Giảm phát thải khí nhà kính đã trở thành yêu cầu bắt buộc thực hiện đối với mọi tổ chức, cá nhân sống và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam và đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2020. Có thể khẳng định rằng Việt Nam là một trong những nước đang phát triển đầu tiên trên thế giới đưa nghĩa vụ thực hiện giảm phát thải khí nhà kính đã cam kết vào hệ thống pháp luật để toàn dân thực hiện. Việt Nam coi giảm nhẹ phát thải nhà kính và ứng phó với biến đổi khí hậu là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị.

“Đây là điểm khác biệt giữa Việt Nam với quốc gia khác, khi việc ứng phó với biến đổi khí hậu thường dồn vào cho một số đối tượng, còn ở Việt Nam thì toàn bộ hệ thống chính trị, có nghĩa là ai cũng phải có trách nhiệm, cụ thể là với Luật Bảo vệ môi trường mới thì các doanh nghiệp thải khí nhà kính lớn, hiện tại chưa phải giảm ngay nhưng cũng phải đo đếm xem một năm phát thải bao nhiêu, từ đó có kế hoạch để để giảm phát thải khí nhà kính theo lộ trình mà Việt Nam tham gia Thỏa thuận Paris”, ông Phạm Văn Tấn cho biết.

Cùng chung quan điểm này, GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu, cho biết, thế giới đánh giá rất cao Việt Nam khi đưa một chiến lược hay chương trình gì đều sự tham gia của các bộ, ngành rất tích cực.

“Khi xây dựng một chiến lược hay một chương trình về biến đổi khí hậu thì tất các bộ, ngành cùng ngồi với nhau để viết. Qua đó, những vấn đề hay khó khăn, thuận lợi của các bộ ngành được chia sẻ, trao đổi và đưa vào chiến lược hay chương trình đó. Cho nên khi chiến lược hay chương trình được xây dựng xong mà Thủ tướng duyệt thì nhận được sự đồng tâm của các bộ, ngành và như vậy là thực hiện rất thuận lợi, còn đối với các nước hầu như họ chưa được điều này, họ đánh giá rất cao Việt Nam, đó là cái đột phá của mình”, GS Trần Thục chia sẻ.

Đánh giá về những thuận lợi cũng như khó khăn của Việt Nam trong nỗ lực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, GS Trần Thục cho rằng, Việt Nam có thể chế chính trị mạnh cho nên sự huy động các bộ, ngành, địa phương tham gia vào nỗ lực chung rất thuận lợi và nhất quán. Bên cạnh đó, thuận lợi thứ hai là, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về biến đổi khí hậu, về môi trường hay phòng, chống thiên tai từ trước đến nay được Việt Nam thực hiện khá tốt. Thứ ba, Việt Nam vốn là một nước chịu nhiều thiệt thòi về thiên tai nhưng chúng ta đã 1.000 năm có kinh nghiệm sống với thiên tai, hiện nay, biến đổi khí hậu có thể làm cho thiên tai ngày càng ác liệt hơn nhưng với những kinh nghiệm đã có, chúng ta có thể vận dụng tìm ra các giải pháp ứng phó.

Tuy nhiên, cũng theo GS Trần Thục Việt Nam cũng còn không ít khó khăn trong nỗ lực thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.

GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu.

GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng thủy văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về Biến đổi khí hậu.

“Người ta ước tính, để thích ứng biến đổi khí hậu cần lượng tiền rất lớn, đặc biệt như là đồng bằng sông Cửu Long nước biển ngập, hạn hán, rồi đến vùng ven biển miền trung chịu nhiều thiên tai, cần tiền rất nhiều để thích ứng. Tuy nhiên, nguồn lực của Nhà nước cho thích ứng mới được khoảng một phần ba so với nhu cầu thích ứng, còn mở ra cho doanh nghiệp để làm thích ứng với biến đổi khí hậu thì khó vì thích ứng với biến đổi khí hậu thường khó mang lại cho lợi nhuận, mà doanh nghiệp làm việc theo lợi nhuận”.

Về việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hiện tại nền kinh tế của Việt Nam đang phát triển rất nhanh trong mấy thập niên gần đây, muốn phát triển nhanh, theo GS Trần Thục, thì phải có năng lượng, phải có điện mà chính vì thế Việt Nam sẽ phát thải lớn hơn và để giảm xuống, đó là một thách thức. Trong khi đó, công nghệ để giảm phát thải hiện tại khá đắt.

Với những nỗ lực trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả trong ứng phó với biến đổi khí hậu, cả về thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu, theo GS Trần Thục, Việt Nam cần tập trung thực hiện một số giải pháp.

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đồng bộ, cần được rà soát, điều chỉnh, bổ sung phù hợp với bối cảnh hiện nay. Cần có hướng dẫn tích hợp nội dung biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và ngành. Cần tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương để giải quyết các vấn đề liên ngành, liên vùng ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ hai, nguồn lực quốc gia đầu tư cho thích ứng với biến đổi khí hậu còn hạn chế. Hiện Nhà nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% so với nhu cầu thích ứng, trong khi nhu cầu tài chính để xây dựng, nâng cấp các công trình phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu rất lớn. Chi phí cho thích ứng với biến đổi khí hậu ước tính sẽ vượt quá 3-5% GDP vào năm 2030. Nếu trong giai đoạn 2021-2030 Việt Nam thực hiện phương án chi 1,5% GDP cho thích ứng với biến đổi khí hậu thì bình quân mỗi năm cần huy động vốn ngoài ngân sách vào khoảng 3,5 tỷ USD, hay khoảng 35 tỷ USD cho giai đoạn 2021- 2030. Cần có các cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế, trong đó có khu vực doanh nghiệp và tư nhân đầu tư vào các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, Việt Nam có nhu cầu lớn về công nghệ, nhất là công nghệ hiện đại phục vụ giám sát biến đổi khí hậu, quan trắc và dự báo khí tượng thủy văn, cảnh báo sớm thiên tai và hiểm họa; công nghệ phục vụ các giải pháp công trình và phi công trình thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ tư, năng lực đội ngũ chuyên gia, cán bộ kỹ thuật chuyên sâu ở một số lĩnh vực, đặc biệt ở cấp địa phương về biến đổi khí hậu và đánh giá hiệu quả các hoạt động thích ứng còn hạn chế. Cần tiếp tục nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường năng lực lựa chọn và quyết định ưu tiên nguồn lực để thực hiện các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu ở Việt Nam.

Thứ năm, cơ sở vật chất, hệ thống công trình phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu cần nâng cấp, tiếp nhận các công nghệ hiện đại để ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai. Tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện sản xuất của người dân phục vụ thích ứng với biến đổi khí hậu.

Việt Nam “đi tắt đón đầu” để cùng toàn cầu giảm phát thải

Mặc dù các nước trên thế giới có xuất phát điểm khác nhau, có sự phân hóa giàu nghèo nhưng trước vấn đề nhiệt độ nóng lên toàn cầu, tất cả các quốc gia đều phải chung tay, đưa ra những cam kết mạnh mẽ chống biến đổi khí hậu. Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) khai mạc ngày 31/10 nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong Thỏa thuận Paris giữ nhiệt độ trung bình toàn cầu vào cuối thế kỷ này chỉ tăng 1,5°C so với thời kỳ tiền công nghiệp.

Nói về khó khăn của việc đạt được thỏa thuận chung này, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu ví von: “Nếu coi mỗi quốc gia là một cơ thể thì trên Trái đất có cơ thể béo và gầy, nước giàu và nước nghèo. Nhưng xu thế chung thế giới trong việc giảm phát thải để thích ứng với biến đổi khí hậu tương tự như việc áp chính sách ăn kiêng cho tất cả mọi người”.

Người gầy cũng như người béo, người suy dinh dưỡng cũng như người phát phì… đều phải thực hiện chung một chính sách làm sao phát thải ít khí nhà kính nhất, trong khi việc này đòi hỏi công nghệ cao, giá cả đắt, không mang lại lợi ích trước mắt. Tác động về kinh tế trước yêu cầu giảm phát thải nhìn thấy ngay trước mắt, có thể ảnh hưởng toàn xã hội, toàn thế giới và không dễ dàng để tất cả cùng thống nhất thực hiện. Vì “người đói” phải làm thế nào để no bụng đã rồi mới nghĩ đến tương lai xa xôi hơn.

“Việt Nam là một nước trung bình thấp, còn khoảng cách khá xa so với những nước khác. GDP của Việt Nam bây giờ khoảng hơn 3.000 USD/đầu người, trong khi đó các nước phát triển có thể gấp 10 - 30 lần so với Việt Nam. Nhưng đây là xu thế chung của toàn cầu nên chúng ta không thể đứng ngoài được, buộc vẫn phải theo lộ trình của “người ăn kiêng” nhưng làm thế nào cho nó phù hợp với điều kiện Việt Nam”, ông Tấn khẳng định.

Để làm được điều đó, theo ông Tấn, trước giờ chúng ta vẫn thường “đi tắt đón đầu”, thì trong vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, Việt Nam cũng phải “đi tắt đón đầu”.

Ông Tấn lý giải, việc để có GDP tăng lên đến 30 - 40 nghìn USD/đầu người như bây giờ thì thế giới đã phải trải qua con đường phát triển “không sạch” như phát triển nhiều điện than.

“Bây giờ chúng ta muốn phát triển không lặp lại như họ nữa, chúng ta phải đi tắt đón đầu bằng cách chuyển ngay sang năng lượng sạch. Năng lượng sạch thì đắt hơn và để làm ra được 1 đồng GDP sẽ khó khăn hơn so với việc sử dụng năng lượng truyền thống ngày xưa. Có thể nói Việt Nam phải nỗ lực cao hơn rất nhiều so với những nước phát triển đã đi trước mình hàng chục năm, hàng trăm năm”, ông Tấn nói.

Là một chuyên gia lâu năm trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, GS Trần Thục đã tham gia 12 Hội nghị COP từ năm 2008 đến 2019. “Qua các lần dự COP, tôi nhận ra điều quan trọng nhất là: Đàm phán về biến đổi khí hậu là một quá trình phức tạp và tiến triển thì rất chậm”, ông Trần Thục nhận xét.

Theo GS Trần Thục, các quốc gia trên thế giới đều thống nhất rằng: biến đổi khí hậu đang diễn ra và sẽ tác động mạnh đến tất cả mọi người, các hệ sinh thái và các quốc gia trên thế giới; biến đổi khí hậu là do con người gây ra do phát thải quá mức khí nhà kính vào bầu khí quyến; con người có thể hạn chế hoặc giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu bằng cách giảm phát thải khí nhà kính.

Do vậy, cần có đàm phán để xác định trách nhiệm giảm phát thải của mỗi quốc gia. Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu được ký kết và năm 1992, nhưng phải mất 20 năm đàm phán mới đạt được Thỏa thận Paris về biến đổi khí hậu vào 2015 và phái mất 6 năm đàm phán về các nội dung chi tiết của Thỏa thuận Paris.

Năm nay, ông Trần Thục không tham gia COP26 nhưng ông hy vọng rằng Hội nghị tại Glasgow, Anh có thể đạt được bước tiến quan trọng với những lý do: Một là, đã có sự chuẩn bị chu đáo trong bối cảnh dịch Covid-19. Hai là, đã có hơn 130 nguyên thủ quốc gia khẳng định sẽ tham dự. Ba là, đến thời điểm này đã có khoảng 140 quốc gia công bố sẽ đạt trung hòa phát thải vào giữa thế kỷ và nhiều quốc gia tăng cam kết về đóng góp tài chính.

Gặp phóng viên Báo Nhân Dân ngay trước ngày bay sang Anh dự Hội nghị COP26, ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu cho biết, COP26 trở nên đặc biệt khi biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng như công bố tháng 8 vừa qua của Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu. Nếu không khẩn cấp xử lý thì nhân loại sẽ đạt đến điểm không thể quay đầu. Hậu họa là khôn lường.

COP26 còn là kỳ hội nghị đánh dấu 5 năm Thỏa thuận Paris được thông qua; đồng thời năm 2021 là năm đầu tiên Thỏa thuận Paris đi vào thực hiện. Chúng ta phải kiểm điểm lại việc chuẩn bị cho thực hiện Thỏa thuận Paris còn thiếu gì cần phải hoàn thiện, bao gồm những điểm vướng mắc của Bộ quy tắc hướng dẫn thi hành Thỏa thuận Paris cần phải đạt được đồng thuận.

Về phía Việt Nam, nhiều người đã biết chúng ta được đánh giá là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên điều còn ít người biết, đó là Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia phát thải nhiều khí nhà kính, hiện đứng thứ 21 trên thế giới và đứng thứ 2 trong ASEAN, chỉ sau Indonesia. Đây là thực tế, dù chúng ta không muốn. Thực tế này làm vị thế của Việt Nam tại Hội nghị trở nên quan trọng và sẽ nhận được quan tâm, chú ý của cộng đồng quốc tế.

Ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

“Tất cả những hoạt động thích ứng của chúng ta trong nước thời gian vừa qua có thể đưa thành những bài học để những nước có điều kiện tương tự học tập. Nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam sẽ đóng góp đáng kể cho nỗ lực giảm khí nhà kính toàn cầu. Nhiều nước có mức độ phát triển tương đương hoặc thấp hơn chúng ta sẽ nhìn Việt Nam để hành động. Vì vậy sự xuất hiện của Việt Nam, hành động của Việt Nam sẽ có tác động đáng kể cho thành công của Hội nghị và nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu”.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam lên đường tham dự Hội nghị COP26, thăm, làm việc tại Anh và thăm chính thức Pháp. Trong các ngày 1 và 2/11 dự kiến có 124 nguyên thủ quốc gia sẽ phát biểu. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu ngay ngày đầu tiên của Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu.

Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu nhận định: “Đoàn Việt Nam tham gia Hội nghị lần này với vị thế rất quan trọng. Chắc chắn, sự tham gia và đóng góp của Việt Nam sẽ tương xứng với vị thế quan trọng này”.

Ngày xuất bản: 01/11/2021
Chỉ đạo thực hiện: TRƯỜNG SƠN
Tổ chức thực hiện: HỒNG VÂN
Nội dung: THẢO LÊ, THANH TRÀ, BÔNG MAI
Trình bày: BÔNG MAI, PHAN ANH
Ảnh: LƯU TRỌNG ĐẠT, HỒ VĂN ĐIỀN, TRỌNG DUY, THANH SƠN

Tuần này, các nhà khoa học khí hậu & nbsp; cảnh báo & nbsp; rằng & nbsp; The & nbsp; khí hậu & nbsp; khủng hoảng & nbsp; là phổ biến, & nbsp; phi thường và tăng cường. Mới nhất & nbsp; Báo cáo & nbsp; của Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cho thấy rõ rằng, một cửa sổ nhỏ để ngăn chặn nhiều & nbsp; phá hủy & nbsp; tác động, thế giới đang & NBSP; . & nbsp;

Đã được làm ấm bởi 1.1C trên các cấp trước công nghiệp, & nbsp; Planet & nbsp; is & nbsp; cực kỳ gần & nbsp; với & nbsp; 1.5c & nbsp; nhiệt độ & nbsp; giới hạn & nbsp; đó là & nbsp; Báo cáo cảnh báo rằng quy mô của những thay đổi do con người gây ra trên hệ thống khí hậu & nbsp; is & nbsp; Hồi chưa từng có và các thái cực khí hậu đang ảnh hưởng đến mọi khu vực trên toàn cầu. & NBSP;

Báo cáo của & nbsp; IPCC, & NBSP; cũng kết luận rằng mức độ khí quyển của carbon dioxide đã không đạt mức cao trong ít nhất 2 triệu năm và thập kỷ qua có khả năng là hot nhất hành tinh đã đạt được trong 125.000 năm. & NBSP;

Điều này có ý nghĩa gì đối với thế giới, & nbsp; 91 & nbsp; hầu hết các quốc gia dễ bị tổn thương; & nbsp;

Đối với các quốc gia đang phát triển trên đảo nhỏ (SIDS) & nbsp; đặc biệt, & nbsp; cuộc khủng hoảng khí hậu đã lan rộng & nbsp; các sự kiện thời tiết ngày càng cực đoan, như những cơn bão tàn khốc đã tấn công Caribbean và Thái Bình Dương trong những năm gần đây. & NBSP; ở Thái Bình Dương, nhiều người SIDS đã bị các thủy triều vua vùi dập trở nên tồi tệ hơn bởi mực nước biển dâng & nbsp; trong khi & nbsp; hạn hán kéo dài & nbsp; đe dọa & nbsp; an ninh lương thực cho các cộng đồng đảo trên toàn khu vực. & Nbsp; & nbsp;

Đối với các quốc gia đảo san hô thấp ở Thái Bình Dương như Kiribati và & nbsp; The & nbsp; Quần đảo Marshall, & nbsp; mà & nbsp; là & nbsp; chỉ khoảng sáu feet so với mực nước biển, & nbsp; Đe dọa & nbsp; cho các quốc gia này. Bất kể thế giới làm gì, các tảng băng rộng lớn ở Greenland và Tây Nam Cực sẽ tiếp tục tan chảy đến cuối thế kỷ. trong hàng ngàn năm. & nbsp;

Ở Châu Phi, nơi có 32 trong số 48 quốc gia ít phát triển nhất thế giới, & nbsp; Đã được cảm nhận ở Tây Nam Phi. & NBSP; & NBSP;

Chúng tôi không có một khoảnh khắc nào để thua, ông cho biết Courtenay Rattray, đại diện cao của các quốc gia kém phát triển nhất, các nước đang phát triển không giáp biển và các quốc gia đang phát triển trên đảo nhỏ. & NBSP; & NBSP;

Ông nói thêm: Các quốc gia dễ bị tổn thương nhất thế giới & nbsp; đã ở trên tiền tuyến của khí hậu & nbsp; khủng hoảng. Họ không chỉ đóng góp ít nhất vào lượng khí thải carbon, & nbsp; mà họ còn tiếp tục bị không tương xứng. Hành động quyết định cần thiết để thay đổi khóa học vì lợi ích của những người dễ bị tổn thương nhất và thế giới.

Tin tức xuất hiện vào thời điểm mà các quốc gia dễ bị tổn thương nhất đã bị căng thẳng bởi sự sụp đổ kinh tế & nbsp; của & nbsp; đại dịch covid-19. Các nguồn tài chính quý giá mà các quốc gia này sẽ sử dụng để thích nghi với cuộc khủng hoảng khí hậu đã được chuyển hướng để giải quyết đại dịch. & NBSP;

Tại & nbsp; Copenhagen & nbsp; Hội nghị thượng đỉnh khí hậu & nbsp; (COP25) năm 2009, & nbsp; các quốc gia giàu có đã đồng ý & nbsp; để & nbsp; Lời hứa đó vẫn chưa được & nbsp; đã gặp. Đồng thời & nbsp; các quốc gia dễ bị tổn thương nhất & nbsp; tiếp tục kêu gọi & nbsp; tài chính & nbsp; to & nbsp; giải quyết & nbsp; các thảm họa do khí hậu xảy ra ngay bây giờ. & Nbsp;

Sonam Phuntsho Wangdi, & NBSP; Chủ tịch của nhóm các quốc gia kém phát triển nhất (LDC) về biến đổi khí hậu & NBSP; cho biết, biến đổi khí hậu đang làm tổn thương các quốc gia và cộng đồng của chúng ta tồi tệ nhất. Nó đã bị trễ nhưng bởi COP26, & NBSP; Các nước phát triển phải đưa ra cam kết hàng thập kỷ của họ để cung cấp 100 tỷ đô la hàng năm và tiếp tục tăng theo nhu cầu của các quốc gia đối mặt với tác động của khí hậu.

Tuy nhiên, vẫn còn thời gian để hạn chế biến đổi khí hậu, & NBSP; IPCC & NBSP; Các chuyên gia nói. & NBSP; Báo cáo cho thấy rõ rằng trong khi thế giới bị khóa trong 30 năm tác động của khí hậu, có một cửa sổ cơ hội để ổn định hệ thống khí hậu sau đó & NBSPS ; nếu các chính phủ thực hiện ngay lập tức, việc cắt giảm khí thải mạnh mẽ & nbsp; đến & nbsp; ổn định khí hậu ở khoảng 1,5 độ C, sự nóng lên so với mức tiền công nghiệp. & NBSP;

Mọi người nhìn thấy một cách thuận lợi và tin rằng các giá trị phổ biến là quan trọng hơn để kết hợp các quốc gia với nhau so với các vấn đề phổ biến

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022
Mực nước thấp tại hồ chứa Baitings cho thấy một cây cầu cổ đại khi điều kiện hạn hán tiếp tục trong sóng nhiệt ở Ripponden, Vương quốc Anh (hình ảnh Christopher Furlong/Getty))

Phân tích Trung tâm nghiên cứu Pew này tập trung vào dư luận về các mối đe dọa toàn cầu và hợp tác quốc tế ở 19 nền kinh tế tiên tiến ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Israel và khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Các mối đe dọa toàn cầu và quan điểm của hợp tác quốc tế được kiểm tra trong bối cảnh dữ liệu xu hướng dài hạn và phân tích nhân khẩu học.

Đối với dữ liệu không thuộc Hoa Kỳ, báo cáo này dựa trên các cuộc điều tra đại diện trên toàn quốc của 20.944 người lớn từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 3 tháng 6 năm 2022. Tất cả các cuộc khảo sát được thực hiện qua điện thoại với người lớn ở Canada, Bỉ, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Ý , Tây Ban Nha, Thụy Điển, Vương quốc Anh, Nhật Bản, Malaysia, Singapore và Hàn Quốc. Các cuộc khảo sát đã được tiến hành trực tiếp ở Hungary, Ba Lan và Israel. Cuộc khảo sát ở Úc được thực hiện trực tuyến. Để biết thêm, xem phương pháp Úc.

Tại Hoa Kỳ, chúng tôi đã khảo sát 3.581 người trưởng thành Hoa Kỳ từ ngày 21 đến 27 tháng 3 năm 2022. Mọi người tham gia khảo sát này là thành viên của Hội đồng Xu hướng Hoa Kỳ (ATP) của Trung tâm, một hội đồng khảo sát trực tuyến được tuyển dụng thông qua việc lấy mẫu ngẫu nhiên, quốc gia địa chỉ dân cư. Cách này gần như tất cả người trưởng thành Hoa Kỳ có cơ hội lựa chọn. Cuộc khảo sát có trọng số để trở thành đại diện cho dân số trưởng thành Hoa Kỳ theo giới tính, chủng tộc, sắc tộc, liên kết đảng phái, giáo dục và các danh mục khác. Đọc thêm về phương pháp ATP. Dưới đây là các câu hỏi được sử dụng cho báo cáo, cùng với các câu trả lời và phương pháp khảo sát.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Với đại dịch covid-19 vẫn còn hoành hành, một cuộc chiến nóng giữa Nga và Ukraine đang diễn ra, tỷ lệ lạm phát tăng trên toàn cầu và hồ sơ nhiệt bị đập tan trên khắp thế giới, các quốc gia đang phải đối mặt với nhiều thách thức vào năm 2022. Trong số nhiều mối đe dọa đối với Quả cầu, biến đổi khí hậu nổi bật như một mối quan tâm đặc biệt mạnh mẽ giữa các công dân ở các nền kinh tế tiên tiến, theo một cuộc khảo sát mới của Trung tâm nghiên cứu Pew. Trung bình 75% trên 19 quốc gia ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương Bán thay đổi khí hậu toàn cầu là mối đe dọa lớn.

Điều này không có nghĩa là mọi người không quan tâm đến các vấn đề khác được thử nghiệm. Đa số ở hầu hết các quốc gia xem sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến, các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác, tình trạng của nền kinh tế toàn cầu và sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm (như Covid-19) là mối đe dọa lớn đối với các quốc gia của họ. & nbsp;

Và mặc dù có nhiều câu chuyện đáng buồn chi phối chu kỳ tin tức quốc tế, nhưng cũng có một lưu ý về sự tích cực giữa những người trả lời khảo sát trong quan điểm của Liên Hợp Quốc, những lợi ích của hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề và tầm quan trọng của các giá trị chung để kết hợp các quốc gia.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Trong cuộc khảo sát hiện tại, trung bình 65% có quan điểm thuận lợi về Liên Hợp Quốc và chỉ có 27% có quan điểm không thuận lợi về tổ chức quốc tế. Quan điểm của Liên Hợp Quốc nói chung vẫn tích cực kể từ khi câu hỏi được hỏi lần đầu tiên vào năm 2004.

Trong số các quốc gia được khảo sát, quan điểm của Liên Hợp Quốc là tích cực nhất ở Ba Lan, Hàn Quốc và Thụy Điển. Nhưng trong số những người Israel, bảy trong mười có một ý kiến ​​bất lợi về cơ thể quốc tế và khoảng một nửa người Hy Lạp và Nhật Bản cũng nói như vậy. Ở một số quốc gia, hỗ trợ cho Liên Hợp Quốc cũng mạnh nhất ở những người trẻ tuổi (từ 18 đến 29 tuổi) và những người bên trái tư tưởng. Điều này đặc biệt đúng ở Hoa Kỳ, nơi những người tự do có khả năng gấp đôi so với những người bảo thủ có quan điểm tích cực về Liên Hợp Quốc.

Mọi người trên thế giới cũng bày tỏ sự lạc quan rằng các vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác. Trung bình 64% cho biết nhiều vấn đề có thể được giải quyết bằng cách làm việc cùng nhau, trong khi chỉ có 31% nói rằng có thể giải quyết được một số vấn đề bằng cách hợp tác quốc tế.

Tình cảm lạc quan nhất về hợp tác quốc tế trong cuộc khảo sát hiện tại đến từ Thụy Điển, nơi 81% nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác. Trên khắp 11 quốc gia châu Âu, trung bình 70% chia sẻ quan điểm này. Và ở hầu hết các quốc gia được khảo sát, những người nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được khắc phục bằng cách làm việc với các quốc gia khác cũng có khuynh hướng tích cực hơn đối với Liên Hợp Quốc.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Một câu hỏi khảo sát mới về hiệu quả của các giá trị phổ biến của người Viking so với các vấn đề phổ biến của người Hồi giáo đối với việc kết hợp thế giới cho thấy một số mô hình thú vị, ngay cả khi hầu hết nói rằng các giá trị phổ biến là quan trọng hơn để kết hợp các quốc gia lại với nhau. Trung bình 58% thấy ý nghĩa chung về các giá trị là quan trọng hơn đối với hợp tác quốc tế, so với 41% người nghĩ rằng các quốc gia được kết hợp nhiều hơn bởi các vấn đề chung.

Khoảng hai phần ba trở lên ở Tây Ban Nha, Pháp và Úc cho biết các giá trị chung của Hồi giáo là quan trọng hơn đối với hợp tác quốc tế, trong khi khoảng sáu phần mười ở Israel và Hy Lạp nói rằng các vấn đề phổ biến của Hồi giáo là quan trọng hơn. Thái độ được trộn lẫn nhiều hơn ở Malaysia, Đức, Ba Lan và Nhật Bản. Về phần mình, người Mỹ có nhiều khả năng nói các giá trị phổ biến mang lại các quốc gia với các vấn đề phổ biến.

Đây là một trong những phát hiện chính của một cuộc khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew, được thực hiện từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 3 tháng 6 năm 2022, trong số 24.525 người trưởng thành ở 19 quốc gia.

Cuộc khảo sát cho thấy mọi người tiếp tục coi biến đổi khí hậu là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với đất nước của họ, và điều này đặc biệt đúng ở châu Âu, nơi nhiều thay đổi khí hậu là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ hơn bất cứ lúc nào trong thập kỷ qua ở hầu hết Quốc gia. Kết quả đến khi cháy rừng và nhiệt độ cực cao trên khắp châu Âu gây ra sự gián đoạn lớn đối với cuộc sống.

Bất chấp những lo ngại nghiêm trọng về biến đổi khí hậu ở châu Âu, những lo ngại tương đối bị tắt tiếng ở Hoa Kỳ, vì họ đã có trong nhiều năm. Quan điểm về biến đổi khí hậu như một mối đe dọa có liên quan đến sự chia rẽ chính trị ở Hoa Kỳ, một điều gì đó cũng thấy ở các quốc gia khác được khảo sát, với những người bên trái tư tưởng cho thấy mối quan tâm nhiều hơn về biến đổi khí hậu so với những người ở bên phải.

Trong khi người dân ở 19 quốc gia này thường coi biến đổi khí hậu là mối đe dọa hàng đầu, mối quan tâm đối với các mối đe dọa khác được thử nghiệm không bị giảm đi. Đa số ở 18 trong số các quốc gia này xem sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến và các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác là những mối đe dọa lớn, thậm chí còn ít xếp hạng như mối đe dọa hàng đầu.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022
5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Mối quan tâm về các cuộc tấn công mạng, có thể được nâng cao bởi căng thẳng giữa Nga và Ukraine và các trường hợp nổi bật của việc hack trên khắp thế giới, đang ở mức cao nhất mọi thời đại ở nhiều quốc gia được khảo sát. Trong năm năm qua, đã có một sự gia tăng đáng kể về cổ phần nói rằng các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ. Và liên quan đến cả các cuộc tấn công mạng và sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến, người già quan tâm nhiều hơn so với người trẻ tuổi ở khoảng một nửa các quốc gia được khảo sát.

Mọi người cũng bày tỏ những lo lắng về tình trạng của nền kinh tế toàn cầu, vì cuộc khảo sát được đưa ra giống như các vấn đề kinh tế liên quan đến lạm phát bắt đầu ảnh hưởng đến con người trên khắp thế giới. Tuy nhiên, những lo ngại về nền kinh tế toàn cầu rất cao ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là trong số những người nói rằng nền kinh tế của chính họ là xấu và chia sẻ sự bi quan về tương lai của trẻ em về sức khỏe tài chính.

Những lo ngại về bệnh truyền nhiễm đã giảm mạnh kể từ năm ngoái ở nhiều quốc gia, vì các trường hợp tử vong trên toàn thế giới đã giảm trong những tháng gần đây. Tuy nhiên, đa số trong tất cả trừ hai quốc gia được khảo sát nói rằng sự lây lan của bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn, vì mọi người tiếp tục chết vì Covid-19 và những lo ngại gia tăng về Monkeypox, mà Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố cấp cứu sức khỏe cộng đồng về mối quan tâm quốc tế.

Mối quan tâm về khí hậu, thông tin sai lệch và tấn công mạng chiếm ưu thế trên 19 quốc gia, nhưng mọi người cũng lo ngại về nền kinh tế toàn cầu và lây lan các bệnh truyền nhiễm

Trong một năm bị chi phối bởi các cuộc khủng hoảng, cả trong nước và quốc tế, người dân ở 19 quốc gia được khảo sát vào mùa xuân năm 2022 tiếp tục xem biến đổi khí hậu toàn cầu là vấn đề nghiêm trọng nhất. Trung bình 75% trên khắp các quốc gia này, chủ yếu tập trung ở châu Âu, Bắc Mỹ và khu vực châu Á-Thái Bình Dương, coi biến đổi khí hậu toàn cầu là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ. Khoảng hai phần mười quan điểm nóng lên toàn cầu là một mối đe dọa nhỏ, trong khi 5% không xem đó là một mối đe dọa.

Trên cơ sở từng quốc gia, mọi người ở chín quốc gia xếp hạng biến đổi khí hậu toàn cầu là mối đe dọa lớn nhất trong số năm mối đe dọa được thử nghiệm. Những người khác là sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến, các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác, tình trạng của nền kinh tế toàn cầu và sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm. Tám trong số các quốc gia này cư trú ở châu Âu, với các quốc gia khác là Úc.

Mối quan tâm về sự nóng lên toàn cầu là tương đối thấp ở Malaysia và Israel, nơi khoảng một nửa hoặc ít hơn nói rằng đó là một mối đe dọa lớn. Ở Hoa Kỳ, 54% mọi người nói rằng biến đổi khí hậu là một mối đe dọa lớn, đó là mức thấp nhất trong số năm mối đe dọa được thử nghiệm. Các bộ phận chính trị về câu hỏi này đóng một vai trò trong cách người Mỹ đánh giá biến đổi khí hậu: 78% đảng Dân chủ và những người nghiêng về Đảng Dân chủ nói rằng biến đổi khí hậu là một mối đe dọa lớn, so với chỉ 23% người Cộng hòa và đảng Cộng hòa. .

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Các bộ phận chính trị về biến đổi khí hậu không bị giới hạn ở Hoa Kỳ ở 14 trong số các quốc gia được khảo sát, những người bên trái chính trị có nhiều khả năng nói rằng biến đổi khí hậu là một mối đe dọa lớn so với những người có quyền chính trị. Ví dụ, ở Úc, 91% những người đặt mình ở phía bên trái của quang phổ chính trị nói rằng biến đổi khí hậu là một mối đe dọa lớn, so với chỉ 47% trong số những người bên phải.

Những khác biệt về mối quan tâm khí hậu cũng được áp dụng khi so sánh những người ủng hộ và những người không chuyên của các đảng dân túy cánh hữu trên khắp châu Âu. Trong hầu hết mọi quốc gia châu Âu được khảo sát, những lo ngại về biến đổi khí hậu đều thấp hơn trong số những người ủng hộ các đảng dân túy cánh hữu so với những người không ủng hộ các bên này. Ví dụ, ở Đức, chỉ có 55% trong số những người ủng hộ sự thay thế cho Đức (AFD) xem biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn, so với 77% những người không ủng hộ AFD. Và tại Thụy Điển, những người ủng hộ đảng Dân chủ Thụy Điển có 32 điểm phần trăm có khả năng nói sự nóng lên toàn cầu là mối đe dọa lớn so với những người không ủng hộ đảng Dân chủ Thụy Điển dân túy mạnh mẽ. Các bộ phận tương tự cũng xuất hiện ở Bỉ, Pháp, Ý, Hà Lan, Ba Lan, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh.

Ở Pháp và Tây Ban Nha, quan điểm tích cực của các đảng dân túy cánh tả (La France Insoumise, do Jean-Luc Mélenchon, ở Pháp và Podemos điều hành ở Tây Ban Nha, do Ione Belarra dẫn đầu) dẫn đến mối quan tâm tương đối cao hơn về biến đổi khí hậu.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Bất chấp những bộ phận chính trị này, những lo ngại về biến đổi khí hậu đã tăng lên trong những năm gần đây, khi mọi người phản ứng với các thái cực của khí hậu đang gây khó chịu cho đất nước của họ. Ví dụ, ba phần tư người Anh nói rằng biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ vào năm 2022. Năm 2013, chỉ có 48% nói như vậy. Mối quan tâm về biến đổi khí hậu là ở mức cao nhất mọi thời đại ở 10 quốc gia.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Theo quan sát trong các cuộc khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew trước đó, có sự phân chia giới tính đối với các mối quan tâm về biến đổi khí hậu toàn cầu. Ở 12 quốc gia, phụ nữ có nhiều khả năng hơn đàn ông nói rằng khí hậu thay đổi là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ. Ở Thụy Điển, 78% phụ nữ, so với 62% nam giới, nói rằng biến đổi khí hậu là một mối quan tâm lớn. Sự khác biệt hai chữ số của bản chất này cũng có mặt ở Úc, Anh, Canada, Hà Lan, Ý và Hoa Kỳ

Trong một số ít các quốc gia, những người có giáo dục nhiều hơn quan tâm đến mối đe dọa của biến đổi khí hậu so với những người có giáo dục ít hơn.

Tuổi tác cũng là một yếu tố trong quan điểm của mối đe dọa khí hậu ở một số quốc gia, nhưng mô hình này có phần hỗn hợp. Ở Úc, Ba Lan, Hoa Kỳ và Pháp, những người trẻ tuổi có nhiều khả năng quan tâm đến biến đổi khí hậu hơn người lớn tuổi. Ví dụ, ở Úc, 85% trong số những người từ 18 đến 29 tuổi nói rằng biến đổi khí hậu là một mối đe dọa lớn, so với 63% trong số 50 người trở lên. Mặt khác, người lớn tuổi ở Nhật Bản quan tâm đến biến đổi khí hậu hơn những người trẻ tuổi.

Sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến và các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác là mối quan tâm lớn thứ hai và thứ ba về tổng thể trong số các vấn đề được thử nghiệm. Trung bình 70% trên 19 quốc gia được khảo sát xem sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến là mối đe dọa hàng đầu, với khoảng một phần tư (24%) nói rằng đây là mối đe dọa nhỏ và 5% tuyên bố không thông tin là không phải là mối đe dọa. Tương tự, 67% coi các cuộc tấn công mạng là một mối đe dọa lớn, với một phần tư nói rằng họ là một mối đe dọa nhỏ và 4% nói rằng chúng không phải là mối đe dọa.

Ba quốc gia xếp hạng thông tin trực tuyến là mối đe dọa tương đối hàng đầu (Đức, Canada và Malaysia); Bốn quốc gia (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Singapore) coi các cuộc tấn công mạng là một trong những mối đe dọa lớn nhất.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Câu hỏi về sự lây lan của thông tin sai lệch như một mối đe dọa là mới, vì vậy các xu hướng trong quá khứ không có sẵn để phân tích. Tuy nhiên, những lo ngại về các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác cũng cao như ở hầu hết các quốc gia được khảo sát kể từ khi Trung tâm nghiên cứu Pew bắt đầu đặt câu hỏi vào năm 2016. Trên thực tế, kể từ năm 2017, những lo ngại về các cuộc tấn công mạng từ các quốc gia khác đã tăng lên ở 12 trong số 16 quốc gia nơi có xu hướng có sẵn.

Lấy Israel, ví dụ. Năm 2017, chỉ có 38% nói rằng các cuộc tấn công mạng là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ. Nhưng vào năm 2022, khi các cuộc tấn công mạng lớn đã trở thành một sự xuất hiện phổ biến hơn, 64% người Israel hiện các cuộc tấn công trực tuyến là mối đe dọa lớn. Tương tự 20 điểm phần trăm trở lên trong mối quan tâm về các vụ hack quy mô lớn cũng được nhìn thấy ở Thụy Điển, Ý và Hungary trong cùng thời kỳ.

Ngoài ra còn có một sự phân chia độ tuổi rõ rệt khi nói đến quan điểm về sự lây lan của thông tin sai lệch và các cuộc tấn công mạng. Trong nhiều trường hợp, mọi người từ 50 tuổi trở lên quan tâm đến các mối đe dọa trực tuyến này so với những người từ 18 đến 29 tuổi. Và trong một số trường hợp, sự khác biệt là khá đáng kể.

Ví dụ, Thụy Điển từ 50 tuổi trở lên là 21 điểm phần trăm có khả năng nói rằng sự lây lan của thông tin sai lệch trực tuyến là mối đe dọa lớn so với Thụy Điển từ 18 đến 29. và ba phần tư người Mỹ từ 50 tuổi trở lên lo ngại về sự lây lan của thông tin sai lệch , so với 56% trong số các đối tác trẻ của họ. Người trưởng thành Hoa Kỳ trẻ hơn tương tự ít hơn so với người lớn tuổi để nói tin tức và thông tin được tạo ra có tác động lớn đến hệ thống dân chủ.

Người già trên một số quốc gia cũng quan tâm đến các cuộc tấn công mạng hơn những người trẻ tuổi. Sự khác biệt theo độ tuổi đặc biệt rõ ràng ở Canada, Úc, Hoa Kỳ, Anh và Đức. Chỉ ở Ba Lan, mô hình này đã đảo ngược (nghĩa là, các cực trẻ tuổi quan tâm đáng kể hơn về thông tin sai lệch và các cuộc tấn công trực tuyến so với các cực cũ).

Đối với hầu hết các phần, không có mối quan tâm lớn hơn về sự lây lan của thông tin sai lệch và các cuộc tấn công mạng giữa những người sử dụng phương tiện truyền thông xã hội so với những người không sử dụng phương tiện truyền thông xã hội.

Những lo ngại về tình trạng của nền kinh tế toàn cầu tương đối bị tắt tiếng giữa các quốc gia được khảo sát, mặc dù điều quan trọng cần lưu ý là cuộc khảo sát năm 2022 đã được đưa ra từ ngày 14 tháng 2 đến ngày 3 tháng 6 Kết quả của cuộc xâm lược Ukraine của Nga và các yếu tố kinh tế khác liên quan đến sự gián đoạn chuỗi cung ứng và đại dịch cung cấp. Trung bình 61% trên 19 quốc gia coi nền kinh tế toàn cầu là mối đe dọa lớn, với khoảng ba phần mười lần coi đó là một mối đe dọa nhỏ và 5% nói rằng đó không phải là mối đe dọa.

Ở bảy quốc gia, những lo ngại về nền kinh tế là mức thấp nhất trong số các vấn đề được thử nghiệm, bao gồm chỉ 37% ở Thụy Điển nói rằng nền kinh tế là một mối quan tâm lớn. Điều đó đang được nói, mối quan tâm về nền kinh tế thế giới đang ở trong một số ít các quốc gia kể từ khi câu hỏi được hỏi lần cuối. Sự gia tăng mối quan tâm đặc biệt quan trọng ở Hungary và Ba Lan, nơi năm 2018 chỉ có khoảng một phần tư ở mỗi quốc gia cho biết nền kinh tế toàn cầu là mối quan tâm lớn. Bây giờ, 72% dán nhãn cho điều kiện của nền kinh tế toàn cầu là mối đe dọa lớn ở Hungary và sáu trong số tương tự ở Ba Lan. Ngoài ra, những lo ngại ở Hy Lạp về nền kinh tế toàn cầu vẫn đặc biệt cao: 93% nói rằng tình trạng của nền kinh tế thế giới là một mối đe dọa lớn.

Giới tính đóng một vai trò trong quan điểm của nền kinh tế thế giới ở chín quốc gia. Ở gần như mọi quốc gia, phụ nữ có nhiều khả năng hơn đàn ông nói rằng nền kinh tế toàn cầu là mối đe dọa đối với đất nước của họ. Khoảng cách là lớn nhất ở Bỉ, nơi khoảng hai phần ba phụ nữ lo lắng về nền kinh tế, nhưng khoảng một nửa số đàn ông nói như vậy.

Trong số những ảnh hưởng mạnh nhất đến quan điểm của nền kinh tế thế giới là mối đe dọa lớn là liệu mọi người nói rằng tình hình kinh tế hiện tại ở đất nước của họ là tốt hay xấu, và liệu mọi người có nghĩ rằng trẻ em ngày nay ở đất nước của họ sẽ tốt hơn hay tồi tệ hơn trong tương lai . Ở 15 quốc gia, những người nói rằng nền kinh tế trong nước đang làm phần nào hoặc rất tệ có nhiều khả năng nói rằng tình trạng của nền kinh tế toàn cầu là mối đe dọa lớn so với những người nói rằng nền kinh tế quốc gia đang hoạt động tốt. Và ở 12 quốc gia, những người nói rằng trẻ em sẽ tồi tệ hơn về mặt tài chính trong tương lai cũng có nhiều khả năng coi nền kinh tế thế giới là một mối đe dọa lớn so với những người nghĩ rằng con cái của họ tương lai rất tươi sáng.

Những lo lắng về sự lây lan của bệnh truyền nhiễm đang giảm dần

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Mối lo ngại về sự lây lan của bệnh truyền nhiễm thấp hơn so với các mối đe dọa khác được thử nghiệm và đã giảm ở nhiều quốc gia kể từ khi câu hỏi được hỏi lần cuối vào năm 2020. Tuy nhiên, trung bình 61% trên 19 quốc gia coi bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn đối với quốc gia.

Đa số ở hầu hết các quốc gia được khảo sát những lo lắng rõ ràng về sự lây lan của bệnh truyền nhiễm. Nhưng ở Đức và Thụy Điển, chỉ khoảng một nửa hoặc ít hơn coi đó là một mối đe dọa lớn. Trên thực tế, người Đức bày tỏ mối quan tâm ít nhất đối với bệnh truyền nhiễm trong số tất cả các mối đe dọa được thử nghiệm, với 49% người Đức mô tả nó là một mối đe dọa lớn. Ở Canada, Anh, Úc và Hàn Quốc, sự lây lan của bệnh truyền nhiễm cũng được xếp hạng là ít liên quan đến tất cả các mối đe dọa toàn cầu.

Ở Ba Lan, Israel và Singapore, sự lây lan của bệnh truyền nhiễm được xếp hạng như hoặc là một trong những mối đe dọa hàng đầu đối với các quốc gia tương ứng của họ. Ở Ba Lan, hơn ba phần tư những người được khảo sát (78%) nói rằng bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ. Và ở Israel, 67% cũng nói như vậy. Khoảng sáu phần mười ở Singapore nói rằng bệnh là một mối đe dọa lớn-cùng một phần, người nói rằng tình trạng của nền kinh tế toàn cầu và các cuộc tấn công mạng là những mối đe dọa lớn.

Kể từ khi câu hỏi được đặt ra cuối cùng vào năm 2020, mối quan tâm về sự lây lan của bệnh truyền nhiễm đã giảm ở hầu hết các quốc gia được khảo sát trong cả hai năm. Ở Hoa Kỳ, lo ngại về sự lây lan của bệnh truyền nhiễm đã giảm gần 20 điểm phần trăm, chỉ với 57% người Mỹ coi đó là mối đe dọa lớn vào năm 2022, trong khi vào năm 2020, 76% cũng nói như vậy. Sự suy giảm này trong các bài hát của Hoa Kỳ với các cuộc bỏ phiếu của Trung tâm nghiên cứu Pew khác về vấn đề này. Mối quan tâm về bệnh truyền nhiễm cũng giảm gấp đôi trong hai năm qua ở Anh, Thụy Điển, Hàn Quốc và Canada.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Trong 16 quốc gia được khảo sát, những người nói rằng việc tiêm vắc -xin coronavirus rất quan trọng đối với việc trở thành một thành viên tốt trong xã hội có nhiều khả năng mô tả sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ so với những người không tin nhận được coronavirus Vắc -xin là quan trọng để trở thành một thành viên tốt của xã hội. Khoảng cách lớn nhất có thể được nhìn thấy ở Israel, nơi có sự khác biệt gần 40 điểm giữa những người tin rằng vắc -xin coronavirus là một thành viên tốt của xã hội (75% nói rằng sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm là một mối đe dọa lớn) và những người không (36%). Ở cả Úc và Canada, một sự khác biệt lớn tương tự có thể được quan sát, với khoảng cách 36 điểm hiện diện giữa hai nhóm ở cả hai quốc gia.

Ở tám quốc gia, những người từ 50 tuổi trở lên có nhiều khả năng coi sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm là một mối đe dọa lớn so với các đối tác trẻ của họ. Ví dụ, ở Anh, 71% người Anh từ 50 tuổi trở lên tin rằng sự lây lan của bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn, trong khi 52% người trưởng thành dưới 30 tuổi nói như vậy.

Phản hồi cũng khác nhau giữa nam và nữ ở nhiều quốc gia, với phụ nữ luôn bày tỏ mối quan tâm lớn hơn về sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm so với nam giới. Khoảng cách này là khác biệt nhất ở Hà Lan, nơi khoảng bảy phần mười phụ nữ nói rằng sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ, trong khi một nửa số người đàn ông nói như vậy-sự khác biệt 17 điểm.

Và ở tám quốc gia, những người có giáo dục ít hơn có nhiều khả năng mô tả sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm là mối đe dọa lớn đối với đất nước của họ hơn những người có giáo dục nhiều hơn. Ở Hungary, khoảng ba phần tư những người có giáo dục ít hơn coi việc lây lan các bệnh truyền nhiễm là một mối đe dọa lớn, trong khi 60% những người có giáo dục nhiều hơn nói như vậy. Mối quan hệ ngược lại được nhìn thấy ở Malaysia, nơi 58% những người ít giáo dục coi các bệnh truyền nhiễm là một mối đe dọa lớn, so với 74% những người có giáo dục nhiều hơn nói như vậy.

Không thấy trong một ánh sáng tích cực của hầu hết 19 quốc gia được thăm dò ý kiến

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Liên Hợp Quốc được nhìn thấy thuận lợi hơn so với bất lợi trên hầu hết các quốc gia được khảo sát vào năm 2022. Trung bình 65% thể hiện ý kiến ​​tích cực về tổ chức đa phương, so với 27% có quan điểm không thuận lợi.

Ở hai quốc gia Bắc Mỹ được khảo sát - Canada và Hoa Kỳ - đa số đưa ra xếp hạng thuận lợi của Liên Hợp Quốc.

Người Mỹ cũng tích cực tương tự về lợi ích của tư cách thành viên của Liên Hợp Quốc viết lớn: Khoảng hai phần ba (66%) nói rằng Hoa Kỳ có lợi cho một số lượng lớn hoặc một số tiền khá lớn từ việc trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. Nhưng, theo một cuộc khảo sát tháng 5 năm 2022, tương đối ít người Mỹ nói rằng ảnh hưởng của Liên Hợp Quốc trên thế giới đã trở nên mạnh mẽ hơn trong những năm gần đây. Chỉ cần 16% bày tỏ quan điểm này, trong khi 39% cho biết ảnh hưởng của UN đã trở nên yếu hơn và 43% cho biết họ vẫn giữ nguyên.

Trên khắp các nước châu Âu được khảo sát, hình ảnh của Liên Hợp Quốc phần lớn là tích cực. Khoảng bảy phần mười hoặc nhiều hơn ở Ba Lan, Thụy Điển, Anh, Đức, Hà Lan và Ý xem Liên Hợp Quốc trong một ánh sáng thuận lợi. Tuy nhiên, người Hy Lạp được phân chia đáng chú ý trong quan điểm của họ: 45% bày tỏ ý kiến ​​thuận lợi, trong khi 49% bày tỏ ý kiến ​​không thuận lợi.

Bảy trong mười người Israel có một cái nhìn bất lợi về Liên Hợp Quốc-đánh giá tiêu cực cao nhất được quan sát trên 19 quốc gia được khảo sát. Quan điểm của Israel về Liên Hợp Quốc bị ảnh hưởng bởi dân tộc: Người Ả Rập có khả năng cao hơn gấp đôi so với người Do Thái để nhìn thấy Liên Hợp Quốc trong một ánh sáng tích cực (lần lượt là 44% so với 21%).

Ý kiến ​​của Liên Hợp Quốc ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương thường tích cực hơn tiêu cực. Đa số ở Hàn Quốc, Úc, Malaysia và Singapore đưa ra xếp hạng thuận lợi của Liên Hợp Quốc. Ý kiến ​​có phần tiêu cực hơn ở Nhật Bản: 48% thể hiện quan điểm tiêu cực, so với 40% người thể hiện tích cực. Tuy nhiên, điều này thể hiện sự cải thiện tổng thể trong ý kiến ​​của Nhật Bản về Liên Hợp Quốc, đạt mức thấp nhất mọi thời đại là 29% thuận lợi vào mùa hè năm 2020.

Tại Hàn Quốc (+8 điểm phần trăm) và Vương quốc Anh (+5), ý kiến ​​thuận lợi của Liên Hợp Quốc đã tăng lên từ năm 2021. Một triển vọng tích cực hơn đối với Liên Hợp Quốc cũng đã xảy ra ở hai quốc gia không được khảo sát kể từ năm 2019: Hungary (+11 ) và Ba Lan (+6). Tuy nhiên, quan điểm tích cực của Liên Hợp Quốc đã giảm đáng kể ở Singapore (-9), Tây Ban Nha (-7), Ý (-6) và Canada (-5) kể từ năm 2021.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Ý kiến ​​của Liên Hợp Quốc được định hình một phần bởi liên kết tư tưởng. Ở bảy quốc gia, những người đặt mình bên trái ý thức hệ có nhiều khả năng hơn những người tự đặt mình ở bên phải để bày tỏ quan điểm tích cực về Liên Hợp Quốc. Sự khác biệt này là lớn nhất ở Hoa Kỳ, nơi những người tự do có khả năng gấp đôi so với những người bảo thủ nắm giữ quan điểm thuận lợi của Liên Hợp Quốc (tương ứng 80% so với 40%). Và sự khác biệt hai chữ số của bản chất này cũng có mặt ở Israel, Canada, Hungary, Úc, Ý và Đức. Tuy nhiên, ở Hy Lạp, mô hình này bị đảo ngược: một nửa số người bên phải có ý kiến ​​tích cực về Liên Hợp Quốc, so với 32% những người ở bên trái.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Tuổi và giáo dục cũng tác động đến ý kiến ​​của Liên Hợp Quốc. Theo quan sát trong các cuộc điều tra của Trung tâm nghiên cứu Pew trước đó, người lớn từ 18 đến 29 có xu hướng có quan điểm thuận lợi hơn của Liên Hợp Quốc so với những người già hơn 50 tuổi trở lên. Ví dụ, ở Hungary, người trẻ tuổi có khả năng cao hơn 20 điểm phần trăm so với người lớn tuổi thể hiện ý kiến ​​tích cực đối với Liên Hợp Quốc. Một mô hình tương tự được quan sát trên một số quốc gia khác trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Châu Âu và Israel.

Những người có giáo dục sau trung học trở lên ở bảy quốc gia có nhiều khả năng hơn những người có giáo dục trung học hoặc ít hơn để bày tỏ quan điểm thuận lợi của Liên Hợp Quốc. Trong số những người Bỉ, 74% những người có giáo dục nhiều hơn có một sự tích cực đối với Liên Hợp Quốc, so với 62% người Bỉ có giáo dục ít hơn. Tuy nhiên, ở Malaysia, những người có giáo dục ít có khả năng có ý kiến ​​tích cực về Liên Hợp Quốc hơn những người có giáo dục nhiều hơn (tương ứng 66% so với 56%).

Ở một số quốc gia châu Âu, những người có quan điểm thuận lợi về quốc gia đó, đảng dân túy cánh hữu đó có nhiều khả năng giữ quan điểm tiêu cực về Liên Hợp Quốc hơn những người không thuận lợi đối với các đảng dân túy. Ví dụ, ở Đức, 44% những người có quan điểm thuận lợi về giải pháp thay thế cho Đức (AFD) thể hiện quan điểm không thuận lợi của Liên Hợp Quốc, so với 21% những người có quan điểm không thuận lợi về AFD nói như vậy.

Hầu hết nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Trung bình 64% trên 19 quốc gia nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác, trong khi 31% nói rằng một số vấn đề như vậy có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác. Tình cảm mà sự hợp tác quốc tế có thể giải quyết nhiều vấn đề của đất nước là cao nhất ở Thụy Điển, nơi có hơn tám trong số nói điều này.

Niềm tin tương tự vào các vòng hợp tác quốc tế đúng ở hầu hết các nước châu Âu được khảo sát. Ở Hà Lan, Ý, Tây Ban Nha, Đức và Vương quốc Anh, ít nhất bảy phần mười nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác. Trung bình 70% trên 11 quốc gia châu Âu được khảo sát cho rằng hợp tác quốc tế có thể giải quyết nhiều vấn đề trong nước mà mọi người gặp phải.

Quan điểm ở Bắc Mỹ và khu vực châu Á-Thái Bình Dương bị chia rẽ nhiều hơn. Chỉ có khoảng một nửa số người lớn ở cả Hoa Kỳ và Canada tin rằng hầu hết các vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết thông qua hợp tác quốc tế. Đa số ở Nhật Bản, Úc và Hàn Quốc cũng nói như vậy, nhưng ở Malaysia, chỉ có 49% đồng ý.

Ở nhiều quốc gia, quan điểm khác nhau theo giáo dục. Những người có giáo dục nhiều hơn có nhiều khả năng nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác ở 11 quốc gia, chẳng hạn như ở Pháp, nơi gần ba phần tư những người có trình độ học vấn cao hơn nói điều này, như Trái ngược với 61% những người có trình độ học vấn thấp hơn.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Tư tưởng cũng đóng một vai trò trong quan điểm của mọi người về khả năng hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề. Ở 10 quốc gia, những người bên trái có nhiều khả năng hơn những người bên phải nói rằng nhiều vấn đề mà đất nước họ phải đối mặt có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác. Sự khác biệt này được thấy rõ nhất ở Hoa Kỳ, nơi khoảng cách giữa đảng Tự do và đảng Bảo thủ là hơn 30 điểm phần trăm. .

Ở 12 quốc gia, quan điểm về hợp tác quốc tế cũng thay đổi theo ấn tượng của Liên Hợp Quốc, với những người cảm thấy thuận lợi cho Liên Hợp Quốc có nhiều khả năng nói rằng nhiều vấn đề ở nước họ có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác. Trong tất cả 12 quốc gia, có một sự khác biệt hai chữ số giữa những người cảm thấy thuận lợi cho Liên Hợp Quốc và những người không. Ví dụ, tại Nhật Bản, 84% có ý kiến ​​tích cực về Liên Hợp Quốc cũng bày tỏ niềm tin rằng các vấn đề của đất nước họ có thể được giải quyết bằng cách làm việc với các quốc gia khác, trong khi 71% những người có ý kiến ​​bất lợi về Liên Hợp Quốc nói như vậy.

Các giá trị phổ biến, thường được coi là kết hợp các quốc gia với nhau nhiều hơn ’các vấn đề phổ biến

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Trên nhiều trong số 19 quốc gia được khảo sát, cổ phiếu lớn hơn nói rằng các giá trị chung là quan trọng hơn để kết hợp các quốc gia với nhau hơn là nói những vấn đề phổ biến là quan trọng hơn.

Đa số ở 12 quốc gia cho biết các giá trị chung là quan trọng hơn đối với hợp tác quốc tế, bao gồm khoảng hai phần ba trở lên ở Tây Ban Nha, Pháp và Úc. Các quốc gia nơi có nhiều quan điểm rằng các giá trị phổ biến mang các quốc gia cùng nhau ở châu Âu, khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Bắc Mỹ.

Quan điểm về tầm quan trọng của các giá trị hoặc vấn đề đối với việc kết hợp các quốc gia có phần hỗn hợp ở Malaysia, Đức, Ba Lan và Nhật Bản. Cổ phiếu gần như bằng nhau ở các quốc gia này cho biết các giá trị hoặc vấn đề chung là quan trọng hơn đối với hợp tác toàn cầu.

Chỉ ở ba quốc gia được khảo sát mới làm hơn một nửa nói rằng những vấn đề phổ biến là quan trọng để kết hợp các quốc gia lại với nhau: Israel, Hy Lạp và Hungary.

5 quốc gia hàng đầu bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2022

Ở bảy quốc gia, người trưởng thành từ 50 tuổi trở lên có nhiều khả năng nói các giá trị chung là quan trọng hơn để kết hợp các quốc gia với nhau so với những người ở độ tuổi từ 18 đến 29. hơn các đối tác cũ của họ. Ví dụ, ở Hàn Quốc, người lớn tuổi có khả năng cao hơn 23 điểm phần trăm so với 18 đến 29 để nói các giá trị phổ biến mang các quốc gia lại với nhau.

Ở Malaysia, tuy nhiên, mô hình được đảo ngược. Người trẻ tuổi có nhiều khả năng nói các giá trị phổ biến mang các quốc gia lại với nhau, trong khi người lớn tuổi có nhiều khả năng nói các vấn đề phổ biến khuyến khích hợp tác quốc tế.