Em có suy nghĩ gì về Nhân vật Lương Văn Chánh

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH PHÚ YÊN ĐỀ CHÍNH THỨC ĐỀ THI TUYỂN SINH THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH NĂM HỌC 2013-2014 Môn: Ngữ văn Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phat đề -------------- Câu 1.(1,5 điểm) Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, hai lần tác giả nhắc đến nỗi “thèm người” của nhân vật anh thanh niên. Đó là những lần nào, điều đó có ý nghĩa gì? Câu 2.(1,5 điểm) Giải thích nghĩa các thành ngữ sau và cho biết mỗi thành ngữ có liên quan đến phương châm hội thoại nào: hứa hươu hứa vượn; ông nói gà, bà nói vịt; nửa úp nửa mở. Câu 3. (3,0 điểm) Đọc kĩ câu chuyện dưới đây: NỤ HÔN CHIẾN THẮNG Tại Thế vận hội đặc biệt Seatle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100 m. Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp ngã liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả, không trừ một ai ! Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé: - Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn. Cô gái nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích. Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy. Tiếng vỗ tay hoan hô vang dội nhiều phút liền. Mãi về sau, những người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này. (Theo truyenngan.com.vn) Suy nghĩ của em về “chiến thắng” từ nội dung câu chuyện trên. Câu 4.(4,0 điểm) Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu (Trích Sang thu – Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục, 2005, trang 70) ------------HẾT-----------Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị không giải thích gì thêm. Họ và tên thí sinh:……..….………………….….. ; Số báo danh:………..…………….................................... Chữ kí giám thị 1:………....….……...............…...; Chữ kí giám thị 2:…..…..………….………………......... SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯỚNG DẪN CHẤM THI TỈNH PHÚ YÊN ĐỀ THI TUYỂN SINH THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN CHÁNH NĂM HỌC 2013-2014 ĐỀ CHÍNH THỨC Môn: NGỮ VĂN (Hướng dẫn chấm thi gồm 3 trang) -------------- I- HƯỚNG DẪN CHUNG - Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của hướng dẫn chấm để đánh giá tổng quát bài làm của thí sinh, tránh cách chấm đếm ý cho điểm. - Do đặc trưng của bộ môn Ngữ văn nên giám khảo cần chủ động, linh hoạt trong việc vận dụng đáp án và thang điểm; nếu thí sinh làm bài không theo cách nêu trong đáp án mà vẫn đúng thì cho đủ điểm từng phần như hướng dẫn quy định; khuyến khích những bài viết có cảm xúc và sáng tạo. - Việc chi tiết hoá thang điểm (nếu có) so với thang điểm hướng dẫn chấm phải bảo đảm không sai lệch với hướng dẫn chấm và được thống nhất thực hiện trong Hội đồng chấm thi. - Điểm của toàn bài thi vẫn được giữ nguyên, không làm tròn số. II- ĐÁP ÁN - THANG ĐIỂM CÂU ĐÁP ÁN ĐIỂM Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, hai lần tác giả nhắc đến nỗi “thèm người” của nhân vật anh thanh niên . Đó là những lần nào, điều đó có ý nghĩa gì? - Hai lần tác giả nhắc đến nỗi “thèm người” của nhân vật anh thanh niên: + Lần bác lái xe giới thiệu với ông họa sĩ và cô gái về anh thanh niên: “Thì ra anh ta mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh ta 1,0 đ kiếm kế dừng xe lại để gặp mặt chúng tôi, nhìn trông và nói chuyện Câu 1 một lát”. (1,5 đ) + Lần anh thanh niên tâm sự với ông họa sĩ: “Còn người thì ai mà chả “thèm” hả bác…” - Ý nghĩa: + Đây là nét tâm lí chân thực của người con trai đang ở tuổi thanh niên, thích cuộc sống sôi động, vui vẻ, phải làm việc trên núi cao, tách biệt với mọi người. 0,5 đ + Thể hiện lòng yêu đời, yêu người của anh thanh niên; ý thức được giá trị của cuộc sống, anh đã chiến thắng nỗi cô đơn để sống một cuộc đời có ý nghĩa. Câu 2 Giải thích nghĩa các thành ngữ và cho biết mỗi thành ngữ có liên (1,5đ) quan đến phương châm hội thoại nào - Giải thích: + Hứa hươu hứa vượn: hứa để được lòng rồi không thực hiện lời hứa. + Ông nói gà, bà nói vịt: mỗi người nói một đằng, không khớp với 0,75 đ nhau, không hiểu nhau. + Nửa úp nửa mở: nói mập mờ, ỡm ờ, không nói ra hết ý. - Phương châm hội thoại có liên quan đến thành ngữ: + Hứa hươu hứa vượn: liên quan phương châm về chất. + Ông nói gà, bà nói vịt: liên quan phương châm quan hệ. + Nói nửa úp nửa mở: liên quan phương châm cách thức. 0,75 đ Bày tỏ suy nghĩ về “chiến thắng” từ câu chuyện Nụ hôn chiến thắng Câu 3 (3,0 đ) Câu 4 (4,0 đ) - Yêu cầu về kĩ năng: + Đây là kiểu bài nghị luận xã hội trên cơ sở ý nghĩa của một câu chuyện đã cho. Vì thế, để viết một bài văn nghị luận xã hội chặt chẽ, hợp lí, học sinh phải dựa vào nội dung câu chuyện, tránh lối viết lan man không cần thiết. + Không mắc lỗi diễn đạt về các mặt chính tả, dùng từ, đặt câu. Cách lập luận chặt chẽ, văn sắc bén, thuyết phục, có nét riêng. - Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể kết cấu bài làm theo nhiều cách khác nhau miễn là làm sáng tỏ vấn đề, thuyết phục người đọc. Có thể giải quyết được những nội dung sau đây: + Giới thiệu vấn đề nghị luận. 0,5 đ + Chiến thắng trong mọi cuộc thi nói chung và trong thể thao nói riêng 0,5 đ luôn là niềm khát khao cháy bỏng của con người. Chiến thắng chỉ dành cho những ai xuất sắc nhất. Thế nên, chiến thắng sẽ tôn vinh giá trị con người trên các phương diện ý chí, sức mạnh, trí tuệ, tài năng… Chiến thắng mang lại vinh quang, thậm chí sự giàu sang, hạnh phúc cho người thắng cuộc. + Đôi khi chiến thắng không phải là tất cả. Chiến thắng không phải là 0,5 đ việc vượt qua đối thủ của mình một cách nhanh nhất, ngoạn mục nhất mà chiến thắng có ý nghĩa nhất trong cuộc sống là ta cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ người khác cùng chiến thắng dù ta có thể chậm một bước. + Chiến thắng bản thân, chiến thắng sự vị kỉ, thấp hèn - đó mới là một 0,5 đ chiến thắng vinh quang. + Lên án những chiến thắng có được bằng mọi thủ đoạn, lừa lọc, gian 0,5 đ trá. + Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân. 0,5 đ Cảm nhận về hai khổ thơ đầu trong bài Sang thu của Hữu Thỉnh - Yêu cầu về kĩ năng: + Học sinh nắm vững kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ. + Bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, chữ viết rõ ràng, diễn đạt trôi chảy, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. - Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể kết cấu bài làm theo nhiều cách khác nhau miễn là làm sáng tỏ vấn đề, thuyết phục người đọc. Có thể giải quyết được những nội dung sau đây: + Giới thiệu vấn đề cần nghị luận. 0,5 đ + Những cảm nhận ban đầu cảnh sang thu của đất trời:  Thiên nhiên: hương ổi chín lan vào không gian, phả vào trong gió 0,75 đ se, đem đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu; sương đầu thu chùng chình, giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm.  Tâm trạng của nhà thơ: cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ 0,75 đ ngàng, bâng khuâng, xao xuyến: cả khứu giác, xúc giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc (qua từ bỗng, hình như). + Mùa thu dần dần đến và hiện ra ngày càng rõ dần hơn bằng những đổi thay của vạn vật: Sông không còn cuộn chảy mà êm ả, dềnh dàng như đang lắng lại, 0,25 đ trầm xuống.  Những cánh chim bắt đầu vội vã như cảm nhận được cái se lạnh 0,25 đ của tiết trời.  Đám mây mùa hạ duyên dáng, mềm mại như dải lụa nối hai mùa 0,5 đ hạ và thu ð liên tưởng mới mẻ, thú vị, đầy chất thơ. + Nghệ thuật: Khắc họa hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, đặc sắc về thời điểm giao 0,5 đ mùa hạ - thu ở vùng đồng bằng Bắc bộ.  Sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ (bỗng, phả, hình như…), phép nhân hóa (sương chùng chình, sông được lúc dềnh dàng…) + Đánh giá khái quát về đoạn thơ: Bức tranh sang thu đẹp, gợi cảm, nên thơ; sự quan sát và cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của nhà thơ trước 0,5 đ vẻ đẹp thời khắc giao mùa, ẩn trong đó là tình yêu tha thiết mà tác giả dành cho quê hương xứ sở của mình. ------------HẾT------------

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Hãy nêu vài nét về tiểu sử của Lương Văn Chánh (tóm tắt ngắn gọn đủ nội dung chính) và công lao khai phá vùng đất Phú Yên?

Các câu hỏi tương tự

Lương Văn Chánh (?-1611; Hán Việt: Lương Văn Chính) là một võ quan của chúa Nguyễn thời Lê trung hưng và là người có công với sự nghiệp chiêu tập lưu dân khai khẩn, mở mang và phát triển vùng đất Phú Yên.

Ông sinh khoảng thập niên 40 của thế kỉ thứ 16[1]. Theo sử liệu triều Nguyễn, ông là người huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên [2]; và có nguyên quán ở xã Phụng Lịch (hay Phượng Lịch), huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa[3].

Lúc trước, Lương Văn Chánh làm quan nhà Hậu Lê, trải đến chức Thiên Vũ vệ đô chỉ huy sứ. Đầu năm 1558, ông theo tướng Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá.

Đến năm 1578, quân Chiêm Thành kéo đến đánh phá, ông đem quân tiến đến sông Đà Diễn (tức sông Đà Rằng) đánh chiếm thành Hồ. Nhờ chiến công đó, ông được thăng Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Sau đó ông được giao trông coi huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình Định).

Năm 1593, Lương Văn Chánh theo Nguyễn Hoàng ra Bắc và cùng lập được nhiều chiến công ở Sơn Nam và Hải Dương trong hai năm 1593 và 1594 và được vua Lê Thế Tông tấn phong làm Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân cai quản 4 về Thần Vũ, tước Phù Nghĩa hầu [4].

Đến năm 1597, ông Lương Văn Chánh đang là Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên, nhận sắc lệnh của chúa Nguyễn Hoàng đưa chừng 4.000 lưu dân vào khai khẩn vùng đất phía Nam của Đại Việt từ đèo Cù Mông đến đèo Cả (địa bàn tỉnh Phú Yên ngày nay). ông cùng lưu dân từng bước khẩn hoang, lập ấp; từng bước tạo nên những làng mạc đầu tiên trên châu thổ sông Đà Diễn, sông Cái.[1].

Ông mất ngày 19 tháng 9 năm 1611 (Tân Hợi) tại thôn Long Phụng, thuộc xã Hòa Trị ngày nay; được nhân dân an táng, lập đền thờ nhớ ơn và suy tôn ông là Thành hoàng[1].

Sau đó không hiểu vì sao sử sách lại viết thiếu tên ông, khi Đại Nam liệt truyện tiền biên chép tiểu sử Lương Văn Chánh, có ghi: sách thực lục bỏ sót tên ông[4].

Phải đến khi Nam Bắc phân tranh (1627-1672) chấm dứt, vào năm 1689, chúa Nguyễn mới truy phong cho cho Lương Văn Chánh tước Bảo quốc chi thần. Đến năm 1693, ông lại được phong một lần nữa tước Bảo quốc Hộ dân chi thần. Sau đó suốt từ 1689 đến 1767, Chúa Nguyễn đã 5 lần gia phong cho Lương Văn Chánh, tước vị cuối cùng ông nhận được là Phù Quân công, Thần bảo Hộ dân, Hựu Thuận Phong công, Tỉnh Tiết[4].

Đến thời nhà Nguyễn, ông đã được gia phong thêm 6 lần nữa (các năm 1822, 1843, 1850, 1880, 1887, 1909). Tước vị cuối cùng ông được truy phong là Dục bảo Trung hưng Thượng đẳng thần[4].

Để tưởng nhớ người có công khai hoang vùng đất Phú Yên, hàng năm, nhân dân địa phương tổ chức cúng tế, chăm lo giữ gìn, tôn tạo khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh.[4] Với tầm vóc của một di tích lịch sử, Bộ Văn hoá Thông tin Việt Nam đã công nhận khu mộ và đền thờ Lương Văn Chánh là di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Quê hương ông còn có 1 trường THPT cùng tên ở đó.[5]

  1. ^ a b c Tưởng niệm thành hoàng Lương Văn Chánh-Người có công khai khẩn đất mới của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
  2. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam dư địa chí ước biên (Nhà xuất bản Văn học, 2003, tr. 144) và Đại Nam liệt truyện (Nguyễn Đình Đầu dẫn lại trong bài viết "Đã tìm thấy nguyên quán của Quận công Lương Văn Chánh" in trong Hành trình của một tri thức dấn thân. Nhà xuất bản. Thời Đại và tạp chí Xưa & Nay hợp tác ấn hành, 2010, tr. 261).
  3. ^ Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Đầu trong bài viết "Đã tìm thấy nguyên quán của Quận công Lương Văn Chánh" in trong sách đã dẫn, tr. 261). Tuy nhiên, theo tác giả Trần Viết Ngạc thì "quê Lương Văn Chánh ở làng Tào Sơn, xã Ngọc Lĩnh, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa" ("Lương Văn Chánh Người khai phá đất Phú Yên", tạp chí Xưa và Nay số 106 ra tháng 12 năm 2001, trang 26-27).
  4. ^ a b c d e "Lương Văn Chánh Người khai phá đất Phú Yên" của Trần Viết Ngạc.
  5. ^ Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh Lưu trữ 2008-07-05 tại Wayback Machine, trang Web chính thức của trường.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Lương_Văn_Chánh&oldid=68693225”