Ngu hề thán nghĩa là gì

Từ điển phổ thông

(phụ từ) hề, chừ

Từ điển trích dẫn

1. (Trợ) Đặt ở giữa câu hay ở cuối câu, tương đương với “a” 啊: Biểu thị cảm thán. ◇Sử Kí 史記: “Lực bạt san hề khí cái thế, Thì bất lợi hề chuy bất thệ” 力拔山兮氣蓋世, 時不利兮騅不逝 (Hạng Vũ bổn kỉ 項羽本紀) Sức nhổ núi chừ, hùng khí trùm đời, Thời không gặp chừ, ngựa Chuy không chạy.
2. (Trợ) Biểu thị khen ngợi, khẳng định. ◇Thi Kinh 詩經: “Bỉ kì chi tử, Bang chi ngạn hề” 彼其之子, 邦之彥兮 (Trịnh phong 鄭風, Cao cừu 羔裘) Vị kia, Phải là bậc tài đức của quốc gia vậy.

Từ điển Thiều Chửu

① Vậy, chữ, lời trợ ngữ trong bài hát.

Từ điển Trần Văn Chánh

(văn) (trợ) Hề, chừ, a: 歸去來兮,田圓將蕪,胡不歸? Về đi thôi, vườn ruộng sắp hoang vu, sao không về? (Đào Uyên Minh: Quy khứ lai từ).

Từ điển Nguyễn Quốc Hùng

Tiếng trợ từ, thường dùng trong các bài ca thời xưa, không có nghĩa gì.

Tự hình 5

Ngu hề thán nghĩa là gì

Ngu Cơ

虞姬

Ảnh vẽ mô tả Ngu Cơ múa kiếm trong tác phẩm Trúc Trang Vãn Tiếu Đường (1921).

Sinh?Mất202 TCN (?)Tên khácNgu Diệu Dặc (虞妙弋)Kỷ nguyênChiến tranh Hán SởNổi tiếng vìCai Hạ ca
Bá Vương biệt CơPhối ngẫuHạng Vũ

Bà là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử cũng như văn hóa dân gian Trung Hoa với cuộc đời gắn bó cùng Hạng Vũ. Ngu Cơ được nhắc đến lần đầu trong văn bản Sử ký Tư Mã Thiên, sau đó là Hán thư và dần được truyền tụng trong đời sống bình thường. Bà được dân gian lý tưởng hóa câu chuyện, chuyển thể gắn liền với điển tích mà người đời sau gọi là "Bá Vương biệt Cơ" (霸王别姬), một điển tích nổi tiếng về tình cảm, trở thành nỗi bi ca được nhớ đến qua nhiều thời kỳ, thể hiện trong nghệ thuật, thơ, phú, hội họa, và cả điện ảnh hiện đại.

Trong văn hóa dân gian đương đại, tưởng nhớ về các nhân vật truyền kỳ, Ngu Cơ cùng Bạch Nương Tử, Mạnh Khương Nữ và Vương Bảo Xuyến được gọi là Tứ đại tình nữ (四大情女) – hình tượng về tình cảm sâu sắc của những người phụ nữ xa xưa.

 

Tranh Ngu Cơ trong tác phẩm thời nhà Thanh.

Ngu Cơ là một nhân vật sống ở thời kỳ chuyển giao giữa Vương quốc và Đế quốc trong lịch sử Trung Quốc.[note 1] Xuất thân của Ngu Cơ hiện tại không có một tài liệu cổ nào chứng minh, theo hiểu biết thông thường, bởi vì bà trở thành vợ của Hạng Vũ, người đời thường cho rằng Ngu Cơ sinh tại vùng đất quê hương của Hạng Vũ là nước Sở, nay là tỉnh Giang Tô.[1] Đối với tên họ của bà, sách Sử ký ghi rằng "Mỹ nhân tên Ngu" (美人名虞),[1] trong khi sách Hán thư ghi lại là "Mỹ nhân họ Ngu thị" (美人姓虞氏).[2][note 2]

Năm 209 TCN, Hạng Vũ và chú là Hạng Lương khởi nghĩa để lật đổ nhà Tần. Không rõ thời điểm Ngu Cơ và Hạng Vũ gặp nhau, cũng như không rõ quá trình bà trở thành vợ của Tây Sở Bá Vương. Hiện tại ngoài danh xưng "Mỹ nhân" trong hai quyển chính sử, người đời cũng không rõ tình trạng hôn nhân của bà và Hạng Vũ, là vợ chính thức hay chỉ là vợ lẽ. Theo hai cuốn chính sử, Ngu Cơ thường hay đi cùng Hạng Vũ.[1][2]

Vào năm 202 TCN, Hạng Vũ và quân Sở bị bao vây ở thành Cai Hạ bởi liên quân của Lưu Bang, Hàn Tín và Bành Việt sau loạt trận bất lợi trước số lượng đông đảo của quân Hán. Lúc này, Ngu Cơ đi theo ông ở trận tiền. Quân Hán hát các bài hát dân gian của đất Sở để tạo ra một ấn tượng là nước Sở đã bị quân Hán chiếm, Hạng Vũ thốt lên: "Hán đã chiếm Sở rồi sao? Vì đâu mà người Sở còn nhiều thế?!". Tinh thần chiến đấu của quân Hạng Vũ giảm mạnh và một số binh lính đã đào ngũ bỏ trốn. Tuyệt vọng, Hạng Vũ dùng rượu và hát một bài hát mà người đời sau đã gọi là "Cai Hạ ca" (垓下歌), Ngu Cơ đã hát theo ông. Lời bài hát vẫn còn được cả hai sách chính sử ghi lại:

Cai Hạ ca
力拔山兮氣蓋世 時不利兮騅不逝 騅不逝兮可奈何! 虞兮虞兮奈若何! Lực bạt sơn hề, khí cái thế, Thời bất lợi hề, Truy bất thệ Truy bất thệ hề khả nại hà, Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà. Sức dời núi, khí trùm trời, Ô Truy chùn bước bởi thời không may! Ngựa sao chùn bước thế này? Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng?

Sau khi hát xong, Hạng Vũ lên ngựa, cùng hơn 800 người trong đêm phá vây phóng ra ngoài, sau đó dự không cầm cự được nữa mà tự sát.[1][2] Kết cục của Ngu Cơ hoàn toàn không được đề cập trong hai bản chính sử này. Quyển sách Thái bình hoàn vũ ký được soạn vào đầu thời kỳ nhà Tống chuyên về địa lý, có đề cập chi tiết rằng sau khi Hạng Vũ binh bại thì đã giết đi Ngu Cơ.[3]

 

Tạo hình Hạng Vũ và Ngu Cơ trong Kinh kịch.

Những câu chuyện về Ngu Cơ, cuộc đời giữa Ngu Cơ và Hạng Vũ được kể và mô tả nhiều dạng trong văn học dân gian, chuyện kể lẫn điển tích. Nhưng nổi tiếng nhất trong số đó phải kể đến điển tích "Bá Vương biệt cơ". Đây là một câu chuyển được chuyển thể từ cuộc đời của Ngu Cơ và Hạng Vũ, nhấn mạnh về tình cảm giữa hai người trong thành Cai Hạ. Tuy có nhiều sự nghi ngờ về tính xác thực, nhưng điển tích này về sau trở thành một đoạn bi tráng nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

Điển tích này dựa vào tình tiết Hạng Vũ đau buồn hát bài bài "Cai Hạ ca" được Sử ký và Hán thư ghi chép. So với lịch sử thì điển tích cũng không sai biệt lắm, khi quân Sở bị bao vây ở Cai Hạ, Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít lương hết, tình thế lâm vào cảnh nguy khốn. Quân Hán và quân chư hầu bủa vây nhiều vòng. Đang đêm, Bá Vương thức dậy nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, đây là một mưu kế của Trương Lương để kích động quân Sở. Bá Vương kinh hoàng, nói rằng: "Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở lại đông như thế?". Đêm hôm đó, Bá Vương uống rượu trong trướng cùng Ngu Cơ, đau đớn cảm khái làm bài "Cai Hạ ca". Bá Vương cứ như thế vừa uống rượu mà ca mấy lần, tâm trạng cực kì ảo não. Ngu Cơ ở bên phụ họa, múa kiếm cùng bài ca rồi tự tử.[4]

Đến lúc này, chỉ có một điểm khiến điển tích khác so với lịch sử. Bên cạnh bài "Cai Hạ ca" được ghi chép lại, thì trong điển tích này xuất hiện một bài gọi là "Hòa Cai Hạ ca" (和垓下歌) do Ngu Cơ múa kiếm hát hòa theo:[5]

Cai Hạ ca[note 3] Hòa Cai Hạ ca[note 4]
Lực bạt sơn hề, khí cái thế, Thời bất lợi hề, Truy bất thệ Truy bất thệ hề khả nại hà, Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà. Sức dời núi, khí trùm trời, Ô Truy chùn bước bởi thời không may! Ngựa sao chùn bước thế này? Ngu Cơ, biết tính sao đây hỡi nàng? Hán binh dĩ lược địa, Tứ diện Sở ca thanh. Trượng phu ý khí tận, Tiện thiếp hà liêu sinh. Quân Hán đã cướp đất, Bốn mặt giọng Sở ca. Đại vương ý khí tận; Tiện thiếp sống chi mà?

Thấy Ngu Cơ chết, Bá Vương khóc chảy nước mắt, tả hữu quân đều khóc, không ai có thể ngẩng lên nhìn. Kết cục sau đó đều như chính sử ghi chép lại, Bá Vương Hạng Vũ chọn hơn 800 kỵ binh trung thành, liều chết phá vòng vây của quân Hán, vượt ra ngoài. Chạy đến đình Ô Giang ở Trường Giang sông Dương Tử thì cùng đường.Tự thấy không còn mặt mũi nào qua sông về Giang Đông tái dựng cơ đồ, Bá Vương tự vẫn ở trấn Ô Giang.

Điểm đặc biệt nhất của điển tích là bài "Hòa Cai hạ ca" và tình tiết Ngu Cơ tự sát ngay sau đó. Về bài hát, tư liệu nhắc đến cụ thể nhất là từ "Sử ký chính nghĩa" của Trương Thủ Tiết đời nhà Đường[6], mà Thủ Tiết là dẫn từ Sở Hán xuân thu của học giả Tây Hán là Lục Giả, thất truyền từ thời kỳ Nam Tống. Sự chính xác của điển tích này cho đến nay vẫn là tranh luận, bởi vì cả Sử ký lẫn Hán thư đều không hề đề cập chuyện này, mà tác phẩm của Lục Giả lại là một trong các tư liệu để Tư Mã Thiên soạn nên Sử ký nổi tiếng. Bởi vì thất truyền, cộng thêm Hán-Đường đã trải qua quá lâu, không rõ thông tin mà Trương Thủ Tiết trích dẫn có phải từ Sở Hán xuân thu thực sự, hay là đã tam sao thất bản, đến nay cũng không thể khẳng định. Nhưng cho dù như thế nào, điển tích "Bá Vương biệt cơ" về sau được tung hô hết mực, bởi vì điển tích kết nối dựa trên nhiều sự kiện có thật trong lịch sử, dựa trên lịch sử để nhấn mạnh mối tình giữa Hạng Vũ và Ngu Cơ, tình cảm đặc biệt của một người phụ nữ Trung Quốc trong giai đoạn phong kiến.

Quê quán và tưởng nhớ

Trong chính sử hoàn toàn không ghi lại quê quán của Ngu Cơ, sở dĩ người đời mặc định bà là người nước Sở (nay là khu vực tỉnh Giang Tô) chỉ bởi vì bà là vợ của Hạng Vũ, một quý tộc nước Sở chính gốc. Có hai giả thuyết khác nhau về quê quán cụ thể của bà, giả thuyết thứ nhất nói bà đến từ trấn Nhan Tập,[note 5] nay thuộc huyện Thuật Dương, địa cấp thị Tú Thiên, trong khi giả thuyết thứ hai nói bà đến từ Tô Châu, nay là địa cấp thị Tô Châu. Các địa danh đều thuộc tỉnh Giang Tô, và cũng là quê hương của Hạng Vũ.[7]

Ở trấn Nhan Tập, huyện Thuật Dương có địa danh Ngu Cơ câu (虞姬沟), một hào nước uốn lượn với phong cảnh đẹp, trong vùng có rất nhiều truyền thuyết liên quan đến Ngu Cơ cùng Hạng Vũ, như Yên chi tỉnh (胭脂井), Bá Vương kiều (霸王桥), Cửu long khẩu (九龙口) cùng Hạng Trạch (项宅). Căn cứ theo Giang Tây Cát An Lư Lăng Hạng thị gia phổ,[note 6] Ngu Cơ được mô tả với cách gọi là Ngu Hậu: "Ngu Hậu sinh ra, có năm con phượng tỏa sáng trong nhà, mùi hương kì lạ không dứt, năm sinh là Đinh Sửu (224 TCN), mất năm Kỷ Hợi (202 TCN), táng ở Bành Thành".[note 7] Một ghi chép khác cùng tại huyện Thuật Dương về Ngu Cơ rằng, có một viên quan, nhà thơ nổi tiếng thời Nhà Thanh là Viên Mai, trong thời gian giữ chức Tri huyện Thuật Dương từng làm một bài thơ "Quá Ngu câu du Ngu Cơ miếu", cũng tự chú là "Tương truyền, Ngu Cơ là người huyện Thuật vậy".[note 8] Hiện tại ở vùng Thường Thục của Tô Châu, có nhiều địa danh lấy tên Ngu Cơ, ví dụ như huyện Thường Thục có biệt danh là Ngu Thành, lại có Ngu Sơn. Tương truyền, thôn mà bà sinh ra gọi là thôn Ngu Khê thôn.[note 9][8]

Có nhiều giả thuyết về phần mộ Ngu Cơ và nhiều nơi tại Trung Quốc ngày nay có mộ của bà.[9] Các nhà nghiên cứu Trung Quốc ngày nay đã tổng kết các địa danh về phần mộ và nơi thờ bà xung quanh khu vực Cai Hạ trong lịch sử. Có thể kể đến huyện Định Viễn, thuộc địa cấp thị Trừ Châu, tỉnh An Huy, cách 60 dặm so với vùng trận đánh Cai Hạ, tuy nhiên ngày nay không còn dấu tích gì về mộ bà tại huyện này.[9] Theo ghi chép của sách Dư địa chí đời nhà Thanh thì ngôi mộ của Ngu Cơ ở huyện Linh Bích, thuộc địa cấp thị Túc Châu, tỉnh An Huy. Ngôi mộ nằm trên vị trí của trận Cai Hạ nơi bà qua đời. Ngày nay, đây là một ngôi mộ được trùng tu và bảo tồn với tên gọi là lăng Linh Bích, có bia ghi ba chữ "Nữ anh hùng".

 

Hình tượng trong các vở Kinh kịch của Ngu Cơ.

Mối tình của Ngu Cơ và Hạng Vũ phổ biến trong dân gian, qua thời gian đã trở thành một chủ đề rất được ưa chuộng của nhiều vở kịch, bộ phim điện ảnh và phim truyền hình. Trong những tác phẩm này, Ngu Cơ luôn được thể hiện là một người phụ nữ chung tình, mặc dù không có nhiều thông tin về Ngu Cơ được ghi lại trong lịch sử. Cảnh tượng Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ vĩnh biệt Ngu Cơ trước khi xuất trận lần cuối được diễn thành vở Kinh kịch, nổi tiếng nhất là vở "Bá Vương biệt Cơ". Một cuốn tiểu thuyết cùng tên của Lý Bích Hoa đã được Trần Khải Ca chuyển thể thành phim gây tiếng vang lớn. Các nhà thơ như Tô Đông Pha và Viên Mai cũng viết một số bài thơ về Ngu Cơ.

Các nữ diễn viên như Trần Ngọc Liên, Ngô Mỹ Hạnh, Dương Cung Như, Quan Chi Lâm và Lưu Diệc Phi đã thể hiện vai diễn Ngu Cơ trong những bộ phim điện ảnh và phim truyền hình. Một số bộ phim có nhân vật Ngu Cơ như:

  • Bộ phim Hồng Kông Sở hà Hán giới (楚河漢界) năm 1985; do Trần ngọc Liên thủ vai Ngu Cơ.
  • Bộ phim điện ảnh Tây Sở Bá Vương (西楚霸王) năm 1994; do Quan Chi Lâm vai Ngu Cơ.
  • Bộ phim truyền hình Tây Sở Bá Vương (西楚霸王) năm 1994; do Thi Ý diễn Ngu Cơ.
  • Bộ phim truyền hình Hán Lưu Bang (漢劉邦) năm 1998; do Chu Lộ diễn Ngu Cơ.
  • Bộ phim Hồng Kông Sở Hán kiêu hùng (楚汉骄雄) năm 2004; do Ngô Mỹ Hạnh diễn Ngu Cơ.
  • Bộ phim truyền hình Đại Hán Phong (大漢風) năm 2005; do Dương Cung Như diễn Ngu Cơ.
  • Bộ phim truyền hình Thần thoại năm 2010; do Trương Manh diễn Ngu Cơ. Bộ phim chuyển thể bởi Hồ Ca từ tác phẩm điện ảnh cùng tên lừng danh của Thành Long.
  • Bộ phim điện ảnh Hồng Môn yến (鴻門宴) năm 2011; do Lưu Diệc Phi thủ diễn Ngu Cơ.
  • Bộ phim truyền hình Sở Hán truyền kỳ (楚汉爭雄) năm 2012; do Lý Y Hiểu diễn Ngu Cơ.
  • Bộ phim Tần thời minh nguyệt (秦时明月) năm 2015; do Kim Thần vai Xích Luyện (赤练), về sau là Ngu mỹ nhân.

Ngoài ra, bộ phim điện ảnh Bá Vương biệt cơ cũng dựa vào câu chuyện giữa Hạng Vũ và Ngu Cơ. Trong phim, nhân vật Trình Điệp Y (Trương Quốc Vinh thủ vai) nhận vai diễn Ngu Cơ trong bối cảnh của câu chuyện. Đặc biệt, bộ phim Bá Vương biệt cơ[10] giành đoạt giải Cành cọ vàng năm 1993 tại Liên hoan phim Cannes.[11]

  • Hạng Vũ
  • Bá Vương biệt Cơ
  • Trấn Ô Giang

  1. ^ Trong lịch sử Trung Quốc, thời kỳ Vương Quốc là nhà Hạ, Thương, Chu (tức Tam Đại), kết thúc lúc Tần Thủy Hoàng thống nhất chư hầu, chuyển sang thời kỳ Đế quốc với Hán Sở tranh hùng và Nhà Hán ra đời cách đây 2.200 năm.
  2. ^ Ngu Cơ (虞姬), trong đó "Ngu" 虞 mang nghĩa là sự yên vui, tương tự với quốc hiệu Đại Ngu (大虞). Vào thời điểm này, "Ngu Cơ" có thể là "Người phụ nữ họ Ngu" hoặc là cách gọi mĩ xưng của thời cổ đối với người phụ nữ tên Ngu.
    Nếu tính cả trường hợp Triệu Cơ, danh xưng "Ngu Cơ" cũng ám chỉ "Người phụ nữ của nước Ngu", tuy nhiên nước Ngu đã bị diệt vong rất lâu từ tận thời Xuân Thu. Nếu như Ngu Cơ quả là người nước Ngu, thì có lẽ cũng chỉ là được sinh ra tại khu vực của nước Ngu xa xưa. Khu vực nước Ngu là Bình Lục, Vận Thành, tỉnh Sơn Tây hiện tại.
  3. ^ Nguyên văn:
    力拔山兮氣蓋世,
    時不利兮騅不逝.
    騅不逝兮可奈何!
    虞兮虞兮奈若何!
  4. ^ Nguyên văn:
    漢兵已略地
    四面楚歌聲
    大王義氣盡
    賤妾何聊生
  5. ^ Trấn Nhan Tập (顏集镇) là một đơn vị hành chính địa phương cấp hương, trấn của Trung Quốc.
  6. ^ Giang Tây Cát An Lư Lăng Hạng thị gia phổ (江西吉安庐陵项氏家谱) nghĩa là gia phả của nhà họ Hạng ở huyện Lư Lăng, nay đổi tên thành huyện Cát An, thuộc địa cấp thị Cát An, tỉnh Giang Tây.
  7. ^ Nguyên văn: 虞后生时五凤鸣于宅, 异香闻于庭,生于丁丑(公元前224年)卒己亥(公元前202年), 葬彭城.
  8. ^ Bài thơ Quá Ngu câu di Ngu Cơ miếu (过虞沟游虞姬庙), nguyên văn: 为欠虞姬一首诗,白头重到古灵祠。
    三军已散佳人在,六国空亡烈女谁?
    死竟成神重桑梓,魂犹舞草湿胭脂。
    座旁合塑乌骓像,好访君王月下骑。
  9. ^ Ngu Thành (虞城) tức thành thị, Ngu Sơn (虞山) tức ngọn núi, Ngu Khê thôn (虞溪村) tức thôn xóm.

  1. ^ a b c d Tư Mã Thiên, "Quyển 7・Hạng Vũ kỷ": 項王軍壁垓下,兵少食盡,漢軍及諸侯兵圍之數重。夜聞漢軍四面皆楚歌,項王乃大驚曰:「漢皆已得楚乎?是何楚人之多也!」項王則夜起,飲帳中。有美人名虞,常幸從;駿馬名騅,常騎之。於是項王乃悲歌慨,自為詩曰:「力拔山兮氣蓋世,時不利兮騅不逝。騅不逝兮可柰何,虞兮虞兮柰若何!」歌數闋,美人和之。項王泣數行下,左右皆泣,莫能仰視。
  2. ^ a b c Ban Cố, "Quyển 31・Trần Thắng, Hạng Tịch truyện":羽壁垓下,軍少食盡。漢帥諸侯兵圍之數重。羽夜聞漢軍四面皆楚歌,乃驚曰:「漢皆已得楚乎?是何楚人多也!」起飲帳中。有美人姓虞氏,常幸從;駿馬名騅,常騎。乃悲歌忼慨,自為歌詩曰:「力拔山兮氣蓋世,時不利兮騅不逝。騅不逝兮可柰何!虞兮虞兮柰若何!」歌數曲,美人和之。羽泣下數行,左右皆泣,莫能仰視。於是羽遂上馬,戲下騎從者八百餘人,夜直潰圍南出馳。平明,漢軍乃覺之,令騎將灌嬰以五千騎追羽。
  3. ^ Nhạc Sử, quyển 128: 虞姬塜在縣南六十里,髙六丈,即項羽敗殺姬葬此。
  4. ^ Hoa Chính (华政) (ngày 11 tháng 4 năm 2016). “项王英雄气短 虞姬儿女情长(中国戏曲中的传统美德 · 舍身取义)” [Anh hùng Hạng Vũ và mối tình Ngu Cơ (đức tính truyền thống trong kinh kịch Trung Quốc, hy sinh bản thân)]. Tân Hoa xã. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ Châu Hải Đường 2019, tr. 146.
  6. ^ Trương Thủ Tiết, quyển 7: 和音胡卧,反楚漢春秋云,歌曰漢兵已畧地,四方楚歌聲,大王意氣盡,賤妾何聊生。
  7. ^ “虞姬故里” [Cố hương của Ngu Cơ]. Tân Hoa xã Giang Tô. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  8. ^ “虞溪村的姓” [Thôn Ngu Khê]. Hiệp hội nghiên cứu Thuật Dương. ngày 30 tháng 11 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.
  9. ^ a b Quách Vĩ Kiện (2007), tr. 151-152Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFQuách_Vĩ_Kiện2007 (trợ giúp)
  10. ^ “Bá Vương Biệt Cơ (1993)”. IMDB. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.
  11. ^ “Look Back: "Farewell My Concubine" Wins the Palme d'Or at Cannes 1993”. Radii China. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2020.

  • Tư Mã Thiên. Bản điện tử Sử ký Tư Mã Thiên.
  • Ban Cố. Bản điện tử Hán thư.
  • Nhạc Sử. Bản điện tử Thái bình hoàn vũ ký.
  • Trương Thủ Tiết. Bản điện tử Sử ký chính nghĩa.
  • Lý Phương Giang (李方江) (2012). Lịch đại trấn đánh kinh điển của Trung Quốc [中国历代经典战役知道点儿]. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm An Huy (安徽师范大学出版社). ISBN 978-7-8114-1576-6.
  • Hà Dược Thanh (何跃青) (2013). Khảo cổ khám phá Trung Quốc [中国考古发现]. Nhà xuất bản Ngoại văn (外文出版社).
  • Châu Hải Đường (2019). Hán Sở diễn nghĩa. Nhà xuất bản Văn học.
  • Quách Vĩ Kiện (2007). Bí ẩn về lịch sử nhân loại. Nhà xuất bản Hà Nội.

  • CCTV Ngu Cơ phần I
  • CCTV Ngu Cơ phần II

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ngu_Cơ&oldid=68961312”