Nguyên nhân bất lực ở đàn ông

Rối loạn rối loạn cương dương là không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng của dương vật để tiến hành cuộc giao hợp trọn vẹn. Hầu hết các rối loạn cương dương đều liên quan đến chứng rối loạn về mạch máu, thần kinh, tâm lý và hoóc môn; việc sử dụng thuốc cũng có thể là một nguyên nhân. Đánh giá thường bao gồm sàng lọc các bệnh lý nền và đo nồng độ testosterone. Các lựa chọn điều trị bao gồm các thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống, prostaglandin đặt trong niệu đạo hoặc tiêm trực tiếp vào dương vật, các thiết bị hút chân không và phẫu thuật thay vật hang nhân tạo.

Rối loạn cương dương (RLCD, trước đây gọi là bệnh liệt dương) ảnh hưởng đến 20 triệu nam giới ở Mỹ. Tỷ lệ hiện hành của rối loạn cương dương hoàn toàn hoặc một phần là > 50% ở nam giới từ 40 đến 70 tuổi và tỷ lệ hiện hành tăng theo tuổi tác. Hầu hết những nam giới bị ảnh hưởng bởi rối loạn cương dương đều có thể điều trị thành công.

Có 2 loại rối loạn cương dương:

  • Rối loạn cương dương nguyên phát, người đàn ông chưa bao giờ có thể đạt được hoặc duy trì sự cương cứng dương vật.

  • Rối loạn cương dương thứ phát, xuất hiện trong cuộc đời của một người đàn ông mà trước đây họ cương cứng bình thường.

Rối loạn cương dương nguyên phát là rất hiếm và gần như luôn do các yếu tố tâm lý hoặc bất thường rõ ràng giải phẫu.

Rối loạn cương dương thứ phát phổ biến hơn và > 90% số trường hợp có nguyên nhân thực thể. Nhiều người đàn ông bị rối loạn cương dương thứ phát hình thành những vấn đề tâm lý tiêu cực, điều này làm tồi tệ hơn tình trạng rối loạn cương dương.

Các yếu tố tâm lý, đều phải được xem xét trong mọi trường hợp của rối loạn cương dương, dù là tâm lý phản ứng hay tâm lý nguyên phát. Các nguyên nhân tâm lý của RLCD nguyên phát bao gồm cảm giác tội lỗi, nỗi sợ hãi quan hệ tình dục, trầm cảm, hoặc lo âu. Trong rối loạn cương dương thứ phát, các nguyên nhân có thể liên quan đến tình trạng lo lắng, căng thẳng, hoặc trầm cảm. RLCD do tâm lý có thể là xuất hiện ở một tình huống, liên quan đến một nơi, một khoảng thời gian hoặc đối tác cụ thể.

Các nguyên nhân thực thể chính của rối loạn cương dương là sinh lý (thực thể)

  • Rối loạn mạch máu

  • Rối loạn thần kinh

Những rối loạn này thường xuất phát từ xơ vữa động mạch hoặc đái tháo đường.

Phổ biến nhất nguyên nhân mạch máu là chứng xơ vữa động mạch hang dương vật, thường do hút thuốc, rối loạn chức năng nội mô và đái tháo đường. Xơ vữa động mạch và sự lão hóa làm giảm khả năng giãn của động mạch và giãn của cơ trơn thành mạch, làm giảm lượng máu đi vào dương vật xem Tổng quan về chức năng sinh dục nam: cương cứng Sự cương cứng Chức năng tình dục ở nam giới gồm 4 thành phần chính: ham muốn Sự cương cứng Xuất tinh Cực khoái đọc thêm Rối loạn cơ chế gây tắc nghẽn tĩnh mạch làm cho máu thoát ra từ tĩnh mạch, dẫn đến không có khả năng duy trì sự cương cứng. Rối loạn chức năng nội mô là bệnh lý của lớp nội mô bên trong các tiểu động mạch làm giảm khả năng giãn mạch khi cần thiết để tăng lưu lượng máu. Rối loạn chức năng nội mô có vẻ là trung gian của giảm nồng độ nitric oxide và có thể là kết quả của việc hút thuốc, tiểu đường và/hoặc nồng độ testosterone thấp. Rối loạn cơ chế gây tắc nghẽn tĩnh mạch làm cho máu thoát ra từ tĩnh mạch, dẫn đến không có khả năng duy trì sự cương cứng.

Nguyên nhân thần kinh bao gồm đột quỵ, động kinh cục bộ phức tạp, bệnh đa xơ cứng, các bệnh lý thần kinh ngoại biên, tự chủ và các tổn thương tủy sống. Bệnh thần kinh đái tháo đường và tổn thương do phẫu thuật là những nguyên nhân phổ biến.

  • Đánh giá lâm sàng

  • Sàng lọc trầm cảm

  • Định lượng nồng độ Testosterone

Đánh giá lâm sàng nên bao gồm tiền sử dùng thuốc (kể cả thuốc theo toa và các sản phẩm thảo dược) và sử dụng rượu, phẫu thuật vùng chậu và chấn thương, hút thuốc, đái tháo đường, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch và các triệu chứng rối loạn về mạch máu, hoocmon, thần kinh và tâm thần. Nên tìm hiểu sự hài lòng của bệnh nhân với các mối quan hệ tình dục, bao gồm đánh giá của bạn tình và rối loạn chức năng tình dục của bạn tình (ví dụ: teo âm hộ-âm đạo, đau khi giao hợp, trầm cảm).

Nguyên nhân tâm lý nên được nghi ngờ ở những người đàn ông trẻ khỏe mạnh khới phát đột ngột rối loạn cương dương (ED), đặc biệt nếu khởi phát có liên quan đến một biến cố cảm xúc cụ thể hoặc nếu rối loạn xảy ra chỉ ở một số tình huống nhất định. Tiền sử bị RLCD nhưng tự cải thiện cũng cho thấy nguồn gốc tâm lý (RLCD do tâm lý). Nam giới với RLCD do tâm lý thường có cương dương vào ban đêm sau khi thức dậy vào buổi sáng bình thường, trong khi nam giới có RLCD do thực thể thì không.

Nguyên nhân bất lực ở đàn ông

Hiện nay, siêu âm duplex sau khi tiêm thuốc giãn mạch vào trong thể hang như là hỗn hợp prostaglandin E1, papaverine và phentolamine (có bán trên thị trường dưới dạng sản phẩm phối hợp) thường được sử dụng nhất để đánh giá mức độ co mạch của dương vật. Các giá trị bình thường bao gồm vận tốc dòng chảy đỉnh tâm thu > 25 cm/giây và chỉ số kháng trở > 0,8. Chỉ số kháng trở là tỉ lệ giữa vận tốc đỉnh tâm thu và vận tốc cuối tâm trương. Đôi khi, một số bệnh nhân được xem xét phẫu thuật phục hồi mạch máu dương vật sau chấn thương vùng chậu, chụp động mạch chậu, chụp vật hang (giúp xác định vị trí rò rỉ tĩnh mạch) và có thể đo thể hang ký (giúp xác định mức độ rò rỉ tĩnh mạch). Cương dương vật khi ngủ sâu hay gặp ở nam giới khỏe mạnh. Sự cương dương này được đo bằng cách theo dõi sự cương cứng về đêm, có thể giúp phân biệt giữa nguyên nhân thực thể và tâm lý của rối loạn cương dương. Tuy nhiên, việc sử dụng hiện tại của các dụng cụ này chủ yếu là trong nghiên cứu y khoa.

  • Điều trị các nguyên nhân cơ bản

  • Thiết bị hút chân không giúp cương dương hoặc tự tiêm prostaglandin E1 trong thể hang hoặc trong niệu đạo (điều trị bước 2)

  • Nếu các phương pháp điều trị khác thất bại, có thể xem xét chỉ định phẫu thuật thay vật hang nhân tạo.

Cần phải có biện pháp điều trị thích hợp cho các bệnh lý thực thể (ví dụ đái tháo đường Đái tháo đường (DM) Đái tháo đường (DM) là tình trạng giảm tiết insulin và kháng insulin ngoại vi dẫn đến tăng glucose máu. Triệu chứng sớm liên quan tới tăng glucose máu và bao gồm uống nhiều, khát nhiều, tiểu... đọc thêm , u tuyến tuyến yên tiết prolactin Bệnh Galactorrhea Tiết sữa bất thường là tiết sữa ở nam giới hoặc ở nữ giới không cho con bú. Nó thường do một u tuyến ở tuyến yên tiết prolactin. Chẩn đoán bằng cách đo nồng độ prolactin và các kiểm tra hình... đọc thêm , suy tuyến sinh dụ Suy tuyến sinh dục nam Suy sinh dục nam được định nghĩa là sự thiếu hụt testosterone kết hợp với các triệu chứng hoặc giảm sinh tinh trùng, hoặc cả hai. Suy sinh dục có thể là kết quả của một tinh hoàn bất thường... đọc thêm c, bệnh peyronie - bệnh xơ hóa vật hang Bệnh xơ hoá vật hang Bệnh Peyronie là tình trạng xơ hóa của màng bao vật hang, dẫn đến sự co cứng lại của áo ngoài vật hang, kết quả là dương vật bị cong vẹo và đôi khi gây đau khi dương vật cương cứng. Bệnh Peyronie... đọc thêm ). Các loại thuốc có liên quan tạm thời đến sự khởi phát của RLCD cần được ngưng hoặc thay thế. Cần điều trị trầm cảm. Đối với tất cả bệnh nhân, các biện pháp tâm lý giúp bệnh nhân yên tâm và giáo dục bệnh nhân (bao gồm cả bạn tình của bệnh nhân) rất quan trọng. Các bác sĩ lâm sàng nên sử dụng cuộc gặp gỡ này để thảo luận về việc thay đổi hành vi (ví dụ, thay đổi chế độ ăn uống và giảm cân).

Thêm vào đó, lựa chọn đầu tay là một thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống. Nếu cần thiết, một phương pháp không xâm lấn khác có thể được chỉ định chẳng hạn như thiết bị cương dương hút chân không hoặc prostagandin E1 đặt niệu đạo hoặc tiêm nội hang. Các phương pháp điều trị xâm lấn được sử dụng khi các phương pháp không xâm lấn thất bại. Tất cả các loại thuốc và thiết bị cần được thử 5 lần trước khi được coi là không có hiệu quả. Đối với các trường hợp rối loạn cương dương nhẹ, liệu pháp sóng xung kích cường độ thấp (Li-SWT) là một kỹ thuật mới đang chờ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt. Về mặt lý thuyết, nó hoạt động bằng cách hạn chế sự xơ hóa ở các cơ quan sinh dục.

Điều trị đầu tay trong RLCD thường là một thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống. Các thuốc khác được sử dụng bao gồm prostaglandin E1 tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo. Tuy nhiên, vì hầu hết các bệnh nhân đều muốn dùng thuốc uống, thuốc uống được chỉ định trừ khi có chống chỉ định hoặc không dung nạp.

Thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống ức chế có chọn lọc guanosine monophosphate vòng (cGMP) – đặc biệt là phosphodiesterase type 5 (PDE5), chất đồng phân phosphodiesterase chủ yếu trong dương vật. Những loại thuốc này bao gồm sildenafil, vardenafil, avanafil và tadalafil (xem bảng Thuốc ức chế phosphodiesterase type 5 uống cho rối loạn cương dương Thuốc ức chế PDE-5 đường uống điều trị rối loạn cương dương

Nguyên nhân bất lực ở đàn ông
). Thuốc có tác dụng làm cho cương cứng bình thường thông qua cơ chế ngăn ngừa sự thủy phân của cGMP, các thuốc này điều khiển sự giãn cơ trơn phụ thuộc cGMP. Mặc dù vardenafil và tadalafil có tính chọn lọc hơn đối với hệ mạch dương vật so với sildenafil, nhưng đáp ứng lâm sàng và tác dụng phụ của các thuốc này cũng tương tự nhau. Trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh, các thuốc này cho thấy hiệu quả tương đương (60 đến 75%).

Nguyên nhân bất lực ở đàn ông

Tất cả các thuốc ức chế PDE5 gây giãn mạch vành trực tiếp và làm tăng tác dụng hạ huyết áp của nitrat khác, kể cả những thuốc dùng để điều trị bệnh mạch vành. Việc sử dụng đồng thời nitrat và thuốc ức chế PDE5 có thể gây nguy hiểm và cần phải tránh. Cần thảo luận về những nguy cơ, sự lựa chọn và thời gian thích hợp để sử dụng thuốc ức chế PDE5 với bác sĩ tim mạch ở những bệnh nhân chỉ thỉnh thoảng sử dụng nitrat (ví dụ như cơn đau thắt ngực không thường xuyên).

Tác dụng ngoại ý của thuốc ức chế PDE5 bao gồm đỏ bừng mặt, bất thường thị giác, mất thính lực, rối loạn tiêu hóa và nhức đầu. Sildenafil và vardenafil có thể gây ra sự nhận thức màu sắc bất thường (lóe xanh). Sử dụng Tadalafil có mối liên quan với chứng đau cơ. Hiếm gặp, bệnh lý thị thần kinh thiếu máu (NAION) liên quan đến việc sử dụng thuốc ức chế PDE5, nhưng mối quan hệ nhân quả này vẫn chưa được chứng minh. Do có nguy cơ hạ huyết áp nên tất cả các thuốc ức chế PDE5 cần được sử dụng cẩn thận và ở những liều lượng ban đầu thấp hơn cho những bệnh nhân dùng thuốc chẹn alpha (ví dụ, prazosin, terazosin, doxazosin, tamsulosin). Bệnh nhân dùng thuốc chẹn alpha nên đợi ít nhất 4 giờ trước khi dùng thuốc ức chế PDE5. Hiếm khi, chất ức chế PDE5 gây ra hiện tượng cương đau dương vật.

Alprostadil (prostaglandin E1), tự sử dụng bằng tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo, có thể đạt được sự cương cứng với thời gian trung bình là 30 đến 60 phút. Để tăng hiệu quả điều trị có thể phối hợp alprostadil tiêm nội hang với papaverine và phentolamine. Liều dùng quá mức có thể gây ra cương đau dương vật Cương dương vật kéo dài Cương dương vật kéo dài là tình trạng cương cứng dương vật bất thường, kéo dài, gây đau đớn không kèm theo có ham muốn tình dục hoặc kích thích tình dục. Nó thường xảy ra ở trẻ trai từ 5 đến... đọc thêm 1% bệnh nhân và đau bộ phận sinh dục hoặc xương chậu khoảng 10%. Bác sĩ cần hướng dẫn và theo dõi để giúp bệnh nhân đạt được mục đích sử dụng tối ưu và an toàn, bao gồm giảm thiểu nguy cơ cương cứng kéo dài. Thuốc đặt niệu đạo có ít hiệu quả hơn trong việc tạo ra sự cương cứng thỏa đáng (lên tới 60% nam giới) so với tiêm nội hang (lên tới 90%). Đối với một số bệnh nhân không đáp ứng với điều trị đơn độc thuốc ức chế PDE5 cần xem xét chỉ định liệu pháp kết hợp giữa thuốc ức chế PDE5 và alprostadil đặt niệu đạo.

Những người đàn ông có thể đạt được nhưng không duy trì được sự cương cứng có thể sử dụng một vòng đai co thắt để giúp duy trì sự cương dương; một vòng đàn hồi được đặt xung quanh gốc của dương vật cương cứng, ngăn ngừa sự xìu xuống sớm. Những người đàn ông không thể đạt được sự cương cứng có thể sử dụng một thiết bị hút chân không kéo máu vào dương vật qua hoạt động hút, sau đó một vòng đàn hồi được đặt tại gốc của dương vật để duy trì sự cương cứng. Một số nhược điểm của phương pháp này là dương vật bị bầm tím, lạnh đầu dương vật và sự thiếu tự nhiên. Các thiết bị này cũng có thể được kết hợp với liệu pháp thuốc ức chế PDE5 nếu cần.

Li-SWT, về mặt lý thuyết, hạn chế sự xơ hóa trong các cơ quan sinh dục, đang được nghiên cứu làm một phương pháp điều trị rối loạn cương dương.

Nếu thuốc và thiết bị chân không thất bại có thể xem xét chỉ định phẫu thuật cấy ghép một bộ phận dương vật giả. Các bộ phận giả bao gồm các thanh silicone bán cứng hoặc các thiết bị bơm hơi đa thành phần chứa đầy nước muối sinh lý. Cả hai mẫu này đều có nguy cơ chung của gây tê, nhiễm trùng và sự đào thải vật ghép hoặc trục trặc bộ phận cấy ghép giả. Với các bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm, tỷ lệ nhiễm trùng kéo dài hoặc trục trặc của bộ phận cấy ghép giả là dưới 5% và tỷ lệ bệnh nhân và đối tác hài lòng là > 95%. Ưu điểm của việc cấy ghép dương vật giả bằng phẫu thuật là rõ ràng: cương cứng được tạo ra ngay lập tức và tự nhiên, sự cương cứng kéo dài cho đến khi bệnh nhân làm xẹp thiết bị của mình và hoạt động tình dục có thể diễn ra thường xuyên như mong muốn của cặp vợ chồng. Vì vậy khi so sánh mức độ hài lòng giữa tất cả các phương pháp điều trị, cấy ghép dương vật giả có tỷ lệ hài lòng cao nhất.

  • Các rối loạn về mạch máu, thần kinh, tâm lý, hoóc môn và đôi khi việc sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng đến sự cương cứng dương vật.

  • Đánh giá tất cả nam giới có RLCD về hoóc môn, thần kinh, mạch máu và trầm cảm.

  • Đo nồng độ testosterone và xem xét các xét nghiệm khác dựa trên các triệu chứng lâm sàng.

  • Điều trị các bệnh lý nền và sử dụng thuốc ức chế PDE5 đường uống nếu cần.

  • Nếu các biện pháp đó không có hiệu quả, hãy xem xét dùng prostaglandin E1 tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo hoặc sử dụng thiết bị hút chân không; biện pháp cuối cùng là xem xét chỉ định phẫu thuật cấy ghép dương vật giả.