Nhà thơ nào có những bài thơ “chân quê”, thể hiện tình yêu với làng quê và văn hóa truyền thống?
Viếng hồn trinh nữ Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ.Tôi thấy quanh tôi và tất cả,Kinh thành Hà Nội chít khăn sô.Nước mắt chạy quanh, tình thắt lại,Giờ đây tôi khóc một người về!Giờ đây tôi thấy hồn cay đắng,Như có ai mời chén biệt ly!Sáng nay vô số lá vàng rơi,Người gái trinh kia đã chết rồi!Có một chiếc xe màu trắng đục,Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi.Đem đi một chiếc quan tài trắng,Và những vòng hoa trắng lạnh người.Theo bước, những người khăn áo trắng,Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.Để đưa nàng đến nghĩa trang này,Nàng đến đây rồi ở lại đây.Ờ nhỉ, hôm nay là mấy nhỉ?Suốt đời tôi nhớ mãi hôm nay.Sáng nay sau một cơn mưa lớn,Hà Nội bừng lên những nắng vàng.Có những cô nàng trinh trắng lắm,Buồn rầu theo vết bánh xe tang.Từ nay xa cách mãi mà thôi!Tìm thấy làm sao được bóng người.Vừa mới hôm nào còn thẹn thẹn.Tay cầm sáp đỏ đặt lên môi.Chiếc áo màu xanh tựa nước hồ,Nàng vừa may với gió đầu thu.Gió thu còn lại bao nhiêu gió,Chiếc áo giờ đây bạc dưới mồ. *Chắc hẳn những đêm như đêm qua,Nàng còn xây mộng giữa chăn hoa.- Chăn hoa ướp một trời xuân sắc -Đến tận tàn canh rộn tiếng gà.Chắc hẳn những đêm như đêm kia,Nửa đêm lành lạnh gió thu về.Nàng còn thao thức ôm cho chặt,Chiếc gối bông mềm giữa giấc mê...Nhưng sáng hôm nay nàng lặng im,Máu đào ngừng lại ở nơi tim.Mẹ già xé vội khăn tang trắng,Quấn vội lên đầu mấy đứa em.Người mẹ già kia tuổi đã nhiều,Đã từng đau khổ biết bao nhiêu.Mà nay lại khóc thêm lần nữa,Nước mắt còn đâu buổi xế chiều.Những đứa em kia chưa khóc ai,Mà nay đã khóc một người rồi.Mà nay trên những môi non ấy,Chả được bao giờ gọi: “Chị ơi!” *Nàng đã qua đời để tối nay,Có chàng đi hứng gió heo may,Bên hồ để mặc mưa rơi ướt,Đếm mãi bâng quơ những dấu giày.Người ấy hình như có biết nàng,Có lần toan tính chuyện sang ngang.Nhưng hồn nàng tựa con thuyền bé,Vội cắm nghìn thu ở suối vàng.Có gì vừa mất ở đâu đây?Lòng thấy mềm như rượu quá say.Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối:Bàn tay lại nắm phải bàn tay. *Chỉ một vài hôm nữa, thế rồi,(Người ta thương nhớ có ngần thôi)Người ta nhắc đến tên nàng đểKể chuyện nàng như kể chuyện vui.Tôi với nàng đây không biết nhau,Mà tôi thương tiếc bởi vì đâu?“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”.Hà Nội, 1940Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân phổ nhạc thành bài hát Hồn trinh nữ.Nguồn:1. Hoàng Xuân, Nguyễn Bính - thơ và đời, NXB Văn học, 2003 2. Hoàng Hồng, Nguyễn Bính - thơ, NXB Văn học, 2010
Nguyễn Bính (1918 - 1966) tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh tại làng Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Làm thơ khá sớm, năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ “Tâm hồn tôi” dự thi và được giải thưởng của Tự lực Văn đoàn. Từ đó ông liên tiếp có thơ in trên các báo và nhanh chóng được bạn đọc chú ý và yêu mến. Trong khi các thi sĩ thơ mới chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây thì Nguyễn Bính vẫn tha thiết với điệu thơ dân tộc, với lối ví von duyên dáng, ý nhị mà mộc mạc mang đậm nét ca dao, tục ngữ. Thơ ông, do đó, rất được nhiều người yêu thích. Không phải ngẫu nhiên mà người cùng thời gọi ông là “Thi sĩ nhà quê”. Nguyễn Bính có những câu thơ giản dị, cái giản dị đáng thèm muốn của một nhà thơ đích thực. Những câu thơ ấy tạo dựng một Nguyễn Bính riêng biệt trên thi đàn. Cái đẹp của thơ ông chính là sự giản dị, sự giản dị đó ông học được của người thầy lớn là nhân dân, mà cái gốc của dân tộc Việt là cái gốc của nền văn minh lúa nước. Những bài thơ của Nguyễn Bính có một dáng hình riêng mà cho đến nay nhìn nhận lại có thể nói rằng chỉ Nguyễn Bính mới có được. Nguyễn Bính phải nhà quê lắm, chân quê lắm mới viết được những câu thơ: Nhà em có một giàn giầu/Nhà tôi có một hàng cau liên phòng/Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? (Tương tư). Những câu thơ từ chính cuộc đời mình, một cuộc đời nơi làng quê Việt Nam mà ông nhìn thấy qua bản chất của cuộc sống - cuộc sống dân dã mà ông yêu và đắm chìm trong đó. Đố ai viết được về cái tình của cô gái quê e ấp mà táo bạo, rụt rè mà mãnh liệt như ông: Em nghe họ nói mong manh/Hình như họ biết… chúng mình với nhau (Chờ nhau). Nguyễn Bính đã hóa thân vào cô gái quê để thể hiện một cái tình quê e ấp, bẽn lẽn và trong trắng. Không dàn dựng, không bố trí, thơ nói với ta bằng tình cảm thôn dã có từ ngàn năm trước của các cô gái Việt. Nếu nhà thơ không tiếp nhận văn hóa dân gian thì không thể có những câu thơ giản dị và đẹp đến như thế. Trong sáng tác của ông có nhiều bài thơ, câu thơ hay: Hoa chanh nở giữa vườn chanh/Thầy u cùng với chúng mình chân quê (Chân quê); Đêm nay mới thật là đêm/Ai đem giăng sáng giãi lên vườn chè (Thời trước); Anh đi đấy, anh về đâu?/Cánh buồn nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm (Không đề). Những câu thơ đạt tới vẻ đẹp tự nhiên của đời sống chắc chắn không phải do sự thông minh hay kiến thức quyết định, mà do tài năng bẩm sinh vốn có của Nguyễn Bính. Còn ai hơn ông trong thơ ca trước cách mạng nói về thân phận của người đàn bà ở nông thôn, không phải là nông thôn lãng mạn sau lũy tre xanh, với hoa xoan nở tím, trời rắc mưa Xuân với tiếng trống chèo mà nông thôn trước cách mạng tủi cực và đầy nước mắt: Em ơi em ở lại nhà/Vườn dâu em đốn mẹ già em thương/Mẹ già một nắng hai sương/Chị đi một bước trăm đường xót xa. Bài thơ này đã trở thành những bài hát ru con, ru cháu ở nhiều làng quê Việt Nam. Nhà thơ mồ côi cha mẹ từ lúc 3 tháng tuổi, ông không có cái may mắn biết được tình mẹ mà lại có thể viết được những câu thơ đắng lòng rưng rưng để nói về nỗi lòng của người mẹ khi con gái đi lấy chồng xa: Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc/Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi. Cái khóc thầm của người mẹ, người chị, những giọt nước mắt lặng lẽ chảy trong lòng đó nếu không phải ở thân phận người đàn bà thì đố mà biết được. Nguyễn Bính đã diễn tả được chính là nhờ sự hóa thân của ông. Những giậu mùng tơi, giăng sáng, vườn chè, trống chèo, hoa xoan, hoa bưởi, hoa cam, hoa chanh, cánh buồm nâu, vườn cam… tất cả vào thơ Nguyễn Bính một cách trữ tình duyên dáng như ca dao. Chắc chắn chưa có nhà thơ nào dám dùng những mã hiện thực như: ao bèo, con lợn, giàn giầu, giếng thơi… để mà diễn tả nỗi buồn, nỗi mất mát của tình yêu trong tâm hồn người Việt Nam hiện đại. Nguyễn Bính đã dùng nó để viết những câu thơ mở rộng cả thời gian và không gian của thi pháp thơ trữ tình hiện đại: Lợn không nuôi đặc ao bèo/Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn/Giếng thơi mưa ngập nước tràn/Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều. Ta thử so sánh một bài ca dao quen thuộc với thơ Nguyễn Bính để thấy cái tài của nhà thơ đất thành Nam này: Trèo lên cây bưởi hái hoa/Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân/Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc/Em đã có chồng anh tiếc lắm thay (Ca dao). Từ ngày cô đi lấy chồng/Gớm sao có một quãng đồng mà xa/Bờ rào cây bưởi không hoa/Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo (Qua nhà). Nguyễn Bính đã có một vị trí riêng trong đời sống văn học dân tộc. Chùm thơ: Qua nhà, Chân quê, Đêm cuối cùng, Thời trước, Mưa xuân, Lòng mẹ, Chờ nhau, Tương tư, Lỡ bước sang ngang… là những nét đẹp trong bức tranh quê trên thi đàn thơ mới. Về điều này, nhà phê bình Hoài Thanh đã chỉ ra rất đúng: “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê ẩn náu trong lòng ta”. Bằng sự hòa nhập giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa thi ca và đời sống văn hóa dân dã, Nguyễn Bính đã mang lại cho công chúng những bài thơ như chính bản thân của đời sống. Điều đó lý giải vì sao độc giả Việt Nam từ bậc trí giả đến người ít chữ, từ kẻ thành phố đến người ở nông thôn đều dễ dàng tiếp nhận và yêu mến thơ ông. ANH TUẤN Đã là thi sĩ của yêu thương, ngoài đời Nguyễn Bính hẳn phải nhiều lần tương tư mới đúng. Nhưng lần này, “tương tư” trở thành một thi phẩm độc đáo, nó là thơ hiện đại – Thơ mới, nhưng vẫn đậm chất “chân quê”, làm nên một phong cách tài hoa mà giản dị, một tiếng nói của “thôn dân” (Đỗ Lai Thúy) vừa hiện đại, tinh tế mà cũng rất mực chân thành, thấm đẫm hồn quê! |