Tại sao các sư mang họ thích

Những người xuất gia sử dụng chữ Thích làm tộc danh cho mình và đây là điều phổ biến tại Phật giáo Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Vậy tại sao các tu sĩ lại lấy chữ Thích làm tộc danh cho mình và chữ Thích xuất hiện từ bao giờ?

Theo lịch sử Phật giáo Trung Quốc thì việc sử dụng chữ Thích làm tộc danh cho người xuất gia và lâu nay nhiều người cho rằng do Thích Đạo An (năm 312 - 385 đời Tây Tấn) thiết định ra.

Bài liên quan

Ý nghĩa tên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong sử chép thì vào thời Đạo An, tạng Luật chưa truyền đến Trung Quốc, nề nếp sinh hoạt của Tăng già chưa có định hướng chung. Do vậy, ngài Đạo An đã soạn ra những thanh quy, điều lệ làm cương lĩnh tu tập của Tăng già (người xuất gia - PV), trong đó có quy định dùng chữ Thích làm họ.

Nhưng vấn đề là ngài Đạo An đã dựa vào những cơ sở nào để đặt ra quy định này, cũng như những trường hợp sử dụng chữ Thích trước thời Đạo An sẽ giải thích ra sao?

Do đó, để có thể trở thành một quy định được Tăng già nồng nhiệt đón nhận và có sức sống lâu bền đến ngày nay, việc vận dụng chữ Thích dành cho những người xuất gia nhất định phải xuất hiện trước ngài Đạo An rất lâu và trở nên thịnh hành trong thời Ngài song có thể còn mang tính rời rạc, tự phát.

Theo lịch sử Phật giáo Ấn Độ, trong thời Đức Phật, không có một bằng chứng nào cho thấy vấn đề Pháp danh đã từng được đặt ra. Điều này có thể khẳng định qua việc khảo sát danh tính những đệ tử tiêu biểu của Đức Phật lúc bấy giờ.

Từng con người cụ thể, lịch sử đều ghi nhận về tên tuổi, gia cảnh, đời sống… trước khi theo Đức Phật, cũng như quá trình tu tập giải thoát sau khi về với Phật nhưng tuyệt nhiên không thấy lịch sử đả động gì đến việc họ được Đức Phật đặt cho một tên mới sau khi theo Ngài.

Tên của họ vẫn là tên được cha mẹ đặt cho từ lúc sinh ra cho đến lúc từ giã cõi đời. Nhưng như vậy không có nghĩa là Pháp danh mà chúng ta sử dụng rộng rãi ngày nay không có một liên hệ nào bắt nguồn từ thời Đức Phật.

Bài liên quan

Vua Lưu Ly Và Dòng Họ Thích

Sau khi thành Đạo, Ngài ra đi thuyết giáo, thâu nhận môn đệ, thành lập giáo đoàn và có một tên là Sa môn Thích tử mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp trong Kinh tạng Nam truyền cũng như tạng Luật. Đây là danh xưng chính thức của giáo đoàn.

Như vậy, tên bộ tộc Thích Ca của Đức Phật được dùng làm biểu tượng của giáo đoàn.

Còn về lịch sử Phật giáo Việt Nam, ngay trong thời của Đức Phật, chữ Thích đã được dùng một cách chính thức và phổ cập, tuy nhiên chưa được sử dụng cho từng trường hợp cụ thể.

Vào khoảng năm 220 - 300 có một nhà sư hiệu là Trúc Đạo Thanh hay còn gọi là Đạo Hinh, đặc biệt vị sư này còn có một tên gọi khác rất quan trọng đối với vấn đề mà chúng ta đang tìm hiểu, đó là Thích Đạo Thanh.

Với niên đại nói trên, ngài Đạo Thanh phải qua đời ít nhất 12 năm trước khi ngài Đạo An ra đời. Như vậy, rõ ràng trước ngài Đạo An, chí ít là tại Việt Nam, chữ Thích đã chính thức được dùng làm họ của người xuất gia.

Nhưng không phải ai đi tu cũng được mang ngay họ Thích

Bởi quá trình được mang họ Thích phải qua những giai đoạn tu học khác nhau. Không đơn thuần là cứ đi tu là có họ Thích.

Người mới đi tu vào chùa, sau một thời gian thử thách, được Thầy của người đó thế phát (cạo tóc - PV). Khi đó người ấy được gọi là chú Tiểu hoặc chú Điệu và được Thầy ban cho một Pháp danh.

Bài liên quan

Khảo về vương nạn Tỳ Lưu Ly và cuộc thiên di đến Gandhàra của dòng họ Thích

Sau khi hoàn tất chương trình học tại chùa khoảng 2 năm chú được Thầy cho đi thọ giới Sa Di do Giáo hội Phật giáo tổ chức và lúc này Thầy sẽ ban cho Pháp Tự.

Trong thời gian làm Sa Di, chú phải hoàn tất chương trình tu học ít nhất là 5 năm sẽ được Thầy cho đi thọ giới Tỳ Kheo tại Đại Giới Đàn do Giáo hội Phật giáo tổ chức gọi là Tuyển Phật Trường. Nếu đỗ, chú Sa Di được thọ giới Tỳ Kheo. Khi thọ giới Tỳ Kheo mới là chính thức trở thành một tu sĩ của Phật Giáo. Bây giờ, chú được Thầy đặt Pháp hiệu. Lúc này mới được dùng chữ Thích đứng trước.

Không phải tu sĩ nào cũng dùng họ Thích

Trên nguyên tắc thì không riêng gì tu sĩ Phật giáo nước ta mà tất cả tu sĩ Phật giáo khắp nơi trên thế giới, đều mang chung họ Thích. Vì Đức Phật mang họ Thích.

Nhưng việc lấy họ Thích, không phải là một quy luật chung áp dụng cho tất cả. Vấn đề này, còn tùy theo đặc tính và sở thích của mỗi người. Không phải ai cũng đặt cho mình là họ Thích, ít ra là về cách xưng hô cũng như trên những văn kiện giấy tờ.

Thực tế, đã có rất nhiều nhà sư, kể từ khi xuất gia cho đến khi viên tịch, các Ngài không bao giờ lấy chữ Thích. Ví dụ như cố Đại Lão Hòa Thượng Hành Trụ, Ngài thường để là Sa Môn Lê Phước Bình hoặc còn nhiều vị khác chỉ để Pháp danh hay Pháp hiệu mà Thầy Tổ hoặc người đời đặt cho như Thiền sư Vạn Hạnh, Pháp sư Tịnh Không... chứ các Ngài không tự xưng mình là họ Thích. 

Chiết tự chữ Thích 釋 trong chữ Hán. Có lẽ chúng ta đã không còn xa lạ với họ Thích trong Đạo Phật. Vậy chữ hãy viết như thế nào, được cấu thành bởi những chữ gì và có ý nghĩa ra sao. Cùng Jenny tìm hiểu nhé!

📌 Hashtag: #Chiết tự

Xem thêm:

>> Thiền là gì?

>> Bản ngã là gì? Đi từ chiết tự chữ Hán đến quan điểm trong Đạo Phật

Chữ Thích ở đây không phải thể hiện ý nghĩa “yêu thích” như nhiều người lầm tưởng. Thậm chí họ còn trêu đùa, cợt nhả bằng những cái tên thể hiện sự châm chọc “Thích + ….”. Ấy là những người chưa hiểu hoặc cũng không quan tâm tới chữ Hán. Còn bạn, bạn có muốn biết chữ Thích ở trường hợp này có nghĩa là gì và viết như thế nào không? Bạn sẽ thấy ngay trong bài viết này của wikihanhphuc.com.

Đôi nét về Họ Thích trong Đạo Phật

Họ Thích thường chỉ được sử dụng cho Người xuất gia. Còn Phật tử tại gia thì lại không.

Truyền thống lấy họ Thích chỉ có ở Việt Nam hay ở những quốc gia khác?

Theo bài đăng trên website của Chùa Xá Lợi có đề cập đến người tăng sĩ lấy họ Thích từ lúc nào như sau:

Tại sao các sư mang họ thích

Xét trên nguyên tắc chung về họ Thích

“Xét chung, trên nguyên tắc, thì không riêng gì tu sĩ Phật giáo Việt Nam, mà tất cả tu sĩ Phật giáo khắp nơi trên thế giới, đều mang chung họ Thích cả. Vì Đức Phật là họ Thích. Những vị nầy được mệnh danh là con đầu lòng của chánh pháp; là trưởng nam của lịch sử truyền thừa, là con của đấng Điều Ngự, thì lẽ đương nhiên là các ngài phải lấy họ Thích rồi.

Xét riêng về thì việc lấy họ Thích không phải quy luật chung áp dụng cho tất cả

Thứ hai, nếu xét riêng, thì có khác. Vì việc lấy họ Thích, không phải là một quy luật chung áp dụng cho tất cả. Vấn đề nầy, còn tùy theo đặc tính và sở thích của mỗi người. Không phải ai cũng đặt cho mình là họ Thích cả. Ít ra là về cách xưng hô cũng như trên những văn kiện giấy tờ.

Ví dụ về một số vị tu sĩ Phật Giáo Việt Nam không hề lấy họ Thích

Đối với những tu sĩ Phật giáo Việt Nam, có rất nhiều vị, kể từ khi xuất gia cho đến khi viên tịch, các Ngài không bao giờ lấy chữ Thích. Không những thế, có vị còn để ngay tên đời của mình trên những kinh sách đã trước tác cũng như dịch thuật. Trường hợp như cố Đại Lão Hòa Thượng Hành Trụ, Ngài thường để là Sa Môn Lê Phước Bình.

Tại sao các sư mang họ thích

Có nhiều vị chỉ để pháp danh hay pháp hiệu mà thầy tổ đã đặt cho, hoặc là lấy bút hiệu gì đó v.v… chớ các Ngài không tự xưng mình là Thích. Đọc sử Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy sử ghi lại các bậc cao tăng thạc đức thời xưa, hầu hết các Ngài không bao giờ để họ Thích trước pháp danh hay pháp hiệu của các Ngài. Như Vạn Hạnh, thì để là Vạn Hạnh, còn hai chữ Thiền sư do người ta tôn xưng Ngài, vì Ngài tu thiền đạt ngộ được lý Thiền, nên người ta gọi Ngài là Thiền sư. Chỉ có thế thôi.

Riêng về các quốc gia khác, theo chỗ chúng tôi được biết qua một số tài liệu sách báo, thì chúng tôi không thấy họ để chữ Thích (Sàkya) bao giờ. Ngoại trừ Phật Giáo Trung Hoa và Đài Loan, hiện nay thì có một số vị lấy họ Thích. Nhưng phần nhiều chúng tôi thấy họ thường để 2 chữ Pháp sư ở đầu. Như Pháp Sư Tịnh Không chẳng hạn.

Nguyên nhân và thời điểm nào tu sĩ Việt Nam lấy họ Thích?

Xin thưa: Về vấn đề nầy, trong quyển Từ Điển Phật Học Hán Việt có nêu rõ như sau: “Đạo Phật hồi mới truyền sang Trung Quốc, các tăng còn được gọi bằng họ thế tục của mình, hoặc lấy họ Trúc, hoặc lấy họ của bậc sư phụ.

Ví dụ, như ngài Chi Độn vốn họ Quan, vì sư phụ là ngài Chi Khiêm, nên lấy họ là Chi. Ngài Bạch Đạo Du vốn họ Phùng, học với ngài Bạch Thi Lê Mật Đa, nên lấy họ Bạch.

Đến ngài Đạo An, một cao Tăng Trung Hoa đời Đông Tấn (312 – 385) tức thế kỷ thứ tư Tây Lịch, mới bắt đầu nói: Đức Phật có họ là Thích Ca. Nay những người xuất gia nên theo họ của Phật, tức họ Thích. Về sau khi Kinh A Hàm được đem về, trong Kinh cũng nói như vậy. Do đó khắp thiên hạ đều theo. Trong quyển Dị Cư Lục 22 có chép: “Sa môn từ thời Ngụy Tấn lấy họ theo của thầy dạy. Ngài Đạo An suy tôn Đức Thích Ca, bèn lấy chữ Thích làm họ. Sau lại thấy A Hàm nói: Bốn con sông nhập vào bể, không còn có tên của con sông. Bốn họ Sa môn, đều dòng họ Thích. Từ đấy trở thành lệ cố định, các Sa môn bắt đầu lấy họ Thích.”

(Trích: chuaxaloi.vn)

Chữ Thích 釋 trong chữ Hán nghĩa là gì?

Tại sao các sư mang họ thích

Theo từ điển Hán Việt, chữ Thích 釋 được dịch chủ yếu theo 2 nghĩa sau:

1. Giảng cho rõ (Giải thích)

2. Buông, buông ra, thả ra, bỏ, cởi ra, giải trừ, tiêu tan…

Khi sử dụng như danh từ là Họ Thích trong nhà Phật. 

Chiết tự chữ Thích 釋 trong chữ Hán

Chữ Thích 釋 được cấu thành từ các chữ:

Thích (釋 ) = Biện (釆) + Mục (目) + Hạnh (幸)

Tại sao các sư mang họ thích

Trong đó:

Tại sao các sư mang họ thích

Biện (釆) nghĩa là phân biệt, phân biệt rõ

Tại sao các sư mang họ thích

Mục (目) là con mắt

Tại sao các sư mang họ thích

Hạnh (幸) là may mắn, phúc lành, thương yêu.

Như vậy, chữ Thích 釋 hàm chứa ý nghĩa Người có con mắt (Mục : 目) phân biệt (Biện : 釆) được rõ bản chất thực sự của sự vật hiện tượng sẽ không còn bám chấp tham, sân, si, mạn, nghi. Biết buông bỏ những thứ này, thì khi ấy chỉ còn lại may mắn, phúc lành và sự thương yêu (Hạnh : 幸) mà thôi.

Chữ Thích chứa đựng triết lý cơ bản trong đạo Phật

Không biết vô tình hay hữu ý, mà người xưa tạo nên Chữ Thích 釋 lại vô cùng phù hợp với triết lý cơ bản trong Đạo Phật.

Đó là “buông bỏ”. 

Tại sao các sư mang họ thích

Buông bỏ ở đây không có nghĩa là buông xuôi, xa rời trần thế. Mà là buông những chấp niệm, những tham sân si để một lòng hướng thiện. 

Phải chăng như vậy nên chỉ người xuất gia mới mang họ Thích. Những người đã chọn con đường buông bỏ mọi tạp niệm vấn vương. Quyết chí tu thân giúp đời.

Bên cạnh đó, người họ Thích 釋 cũng chính là những người giải thích sự vật, sự việc dưới con mắt (Mục : 目) phân biệt (Biện : 釆) rõ chân lý và mộng tưởng. Giúp người đời thấy rõ để buông bỏ những mộng tưởng tiêu cực, để hướng tới cuộc sống an vui, may mắn và tràn đầy yêu thương (Hạnh : 幸).

Kết luận về chữ Thích 釋 và họ Thích trong Đạo Phật

Dù rằng có thể có những gượng ép nhất định trong viết chiết tự và giải nghĩa, nhưng lại thấy nó rất phù hợp với thiên hướng của chữ này. Ấy là buông bỏ để thấy được hạnh phúc.

Trên đây là “chiết tự chữ Thích 釋 trong chữ Hán”. Hy vọng rằng, bài viết này mang đến cho bạn một góc nhìn mới mẻ về chữ, nghĩa. Cũng như họ Thích trong nhà Phật. Cảm ơn bạn đã quan tâm tới bài viết.

Cầu chúc bình an và hạnh phúc sẽ đến với bạn và tất cả mọi người!

Thân ái,

Mình là Jenny từ Wikihanhphuc.com

Ủng hộ mình tại Channel: Wiki Hạnh Phúc . Rất vui khi có duyên được trò chuyện cùng bạn!

Xem thêm các bài chiết tự ở:

📌 Hashtag: #Chiết tự