Thành tựu toán học của Hy Lạp cổ đại còn sử dụng đến ngày nay là

Bài 10. Hy Lạp và La Mã cổ đại. Giải bài 3 trang 49 Lịch Sử và Địa Lí lớp 6 sách Kết nối tri thức và cuộc sống.

Câu hỏi: Theo em, thành tựu văn hoá nào của Hy Lạp, La Mã cổ đại còn được bảo tồn đến ngày nay?

Trả lời: Thành tựu nào còn được bảo tồn đến ngày nay:

– Thần thoại Hi Lạp: Các vị thần như thần Dớt của Hy Lạp trở thành Giupite của La Mã. – Thần Nêva – vợ thần Dớt của Hy Lạp thành thần Giumông – vợ của Giupite của La Mã…

– Kịch: Kịch Hy Lạp có hai loại: bi kịch và hài kịch, có những nhà soạn kịch nổi tiếng như: Etsin, Xôphốc, Ơripit.

Quảng cáo

– Kiến trúc: đền Páctênông, đền Dớt ở Ơlempi, các đền thờ ở mốt số thành phố Hy Lạp trên đảo Xixin; các công trình kiến trúc ở La Mã nổi tiếng nhất là đền Păngtêông, rạp hát, các khải hoàn môn.

– Điêu khắc: lực sĩ ném đĩa, nữ thần Atêna, người chỉ huy chiến đấu, người cầm giáo, nữ chiến sĩ Amadông bị thương”, thần Hêra…

– Hy Lạp cổ đại có những cống hiến quan trọng về các mặt toán học, thiên văn học, vật lí học, y học… Những thành tựu ấy gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà khoa học nổi tiếng như: Talet, Ơclit, Acsimet, Arixtot, Êratôtxten. Thành tựu khoa học rất lớn của Hy Lạp đặt cơ sở cho sự phát triển của khoa học kĩ thuật thế giới và tiền đề quan trọng cho sự phát triển của xã hội văn minh thế giới.

– Ngoài ra, còn có một số nhà khoa học nổi tiếng Eratơxten, Piliniut, Hipôcrat [ông tổ thầy thuốc của y học phương Đông…]

Hi Lạp được coi là quê hương của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của khoa học tự nhiên [Thiên văn học, địa lí, toán học, vật lí, sinh vật, y dược]. Là nơi sản sinh ra những con người khổng lồ, kiến thức uyên bác, với những thành tựu đáng giá đóng góp cho kho tàng khoa học tự nhiên của lịch sử nhân loại.

Toán học

Toán học Hi Lạp với Talét [thế kỉ VI TCN], Pitago [580 – 500 TCN], Ơcơlít, Acsimét [285 – 212 TCN]… đã vượt qua cách tính nhân, chia, cộng, trừ sơ cấp, vươn tới sự khái quát thành những định lí, định đề, nguyên lí vẫn được sử dụng trong toán học hiện đại: Định lí Pitago, định lí Talét, định luật Acsimét, định đề Ơcơlít…

Các nhà toán học Hi Lạp cổ đại đã phát minh và đặt cơ sở cho môn hình học. Họ đã tính được độ dài của chu vi quả đất [39.700 km], đường kính, diện tích và chu vi các hình với việc tìm ra giá trị của số đo pi = 3,1324.

Talét [Thế kỉ VI TCN] nhà toán học, thiên văn học và triết học Hi Lạp, quê ở Milê. Người đầu tiên đo được chiều cao của Kim tự tháp nhờ phương pháp đo và tính bóng của nó trên mặt đất. Talét cũng là nhà thiên văn học đầu tiên tính toán và dự báo chính xác ngày xảy ra nhật thực ở Milê – ngày 28 – 5 – 585 TCN.

Pitago [580 – 500 TCN] nhà số học nổi tiếng, quê ở đảo gamốt [thuộc biển Êgiê] người theo chủ trương xây dựng nền chính trị bảo thủ nên đã bỏ Xamốt sang sống ở Nam Hi Lạp, đã từng mở trường dạy học. Pitago [và những học trò của ông] đã có công tổng kết những tri thức về số học, thiết lập nhiều công thức, định lí toán học trong đó có định lí Pitago “Tổng bình phương của hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền trong một tam giác”. Pitago còn là nhà thiên văn học tiến bộ thừa nhận trái đất hình cầu, chuyển động theo một quỹ đạo nhất định.

Acsimét [285 – 212 TCN] – nhà vật lí có tên tuổi nhất, người chế tạo ra những hệ thống máy móc đầu tiên ở Hi Lạp – quê ở Xixin [thành bang Xiracudơ] tác giả của định luật Acsimét, người phát hiện ra sức đẩy của nước [bằng chính trọng lượng của vật ở trong nước], phát hiện ra nguyên lí của phép đòn bẩy. Khi Rôma tấn công Xiracudơ, Acsimét đã phát minh ra nhiều vũ khí, máy móc bảo vệ thành: kính hội tụ để sử dụng ánh nắng mặt trời đốt cháy thuyền Rôma; máy bơm nước sử dụng tay để hút nước cho các chiến thuyền Hi Lạp. Acsimet cũng là người tìm ra giá trị của số pi = 3,1324. Acsimét bị quân Rôma giết chết ngay trong phòng thí nghiệm của ông ở Xiracudơ.

Ơcơlít [nửa đầu thế kỉ III TCN], nhà toán học quê ở Alexandria [Ai Cập] người có công tập hợp nhiều nhà toán học và nhiều công trình toán học về Alexandria; người đầu tiên biên soạn sách giáo khoa hình học.

Thiên văn học

Về thiên văn học, người Hi Lạp cũng có những thành tựu và đóng góp đáng kể với tên tuổi của các nhà thiên văn sáng giá: Talét [thế kỉ VI TCN], Pitago [580 – 500 TCN], Arixtác [khoảng thế kỉ III TCN], Eraxtôten [281 – 192 TCN], Hecataút.

  • Các nhà thiên văn Hi Lạp đã nghiên cứu và công bố những bản đồ thiên văn Babylon;
  • dự đoán được ngày nguyệt thực, nhật thực [Talét];
  • thừa nhận quả đất hình cầu và chuyển động theo một quỹ đạo nhất định [Pitago];
  • đề ra thuyết về hệ thống mặt trời và thuyết trái đất tự xoay quanh nó và xoay quanh mặt trời [Arixtác, người ở đảo Xamốt];
  • tính được độ dài của chu vi quả đất với con số tương đối chính xác 39.700 km [Eraxtôten, người ở Alexandria];
  • vẽ được bản đồ đầu tiên của thế giới [Hêcataút];
  • tính được một năm có 365 ngày và 5/19 của ngày [Mêtôn, thế kỉ V TCN].

Y học

Về y học, Híppôcơrát [460 – 377 TCN] được coi là “ông tổ của khoa học y dược”, là người đả phá mạnh những tư tưởng mê tín, dị đoan trong chữa bệnh, đề ra việc chữa bệnh bằng phương pháp khoa học và yêu cầu đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp đối với các thầy thuốc.

Hêrôphin [đầu thế kỉ III TCN] là người đầu tiên nêu ra luận điểm não là trung tâm hệ thần kinh, chỉ huy các hoạt động của con người. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra học thuyết về sự tuần hoàn của máu và phương pháp khám bệnh thông qua việc bắt mạch [nhanh, chậm] của bệnh nhân.

Hêracơlít – người xứ Tarentum – nổi tiếng trong giới phẫu thuật Hi Lạp. Tương truyền, khi mổ xẻ, Hêracơlít đã sử dụng thuốc mê để giảm sự đau đớn cho bệnh nhân.

Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,

154356 điểm

trần tiến

Những thành tựu văn hóa nào của Hy Lạp và La Mã cổ đại còn được bảo tồn đến ngày nay

Tổng hợp câu trả lời [1]

Những thành tựu văn hóa của Hy Lạp và La Mã cổ đại còn được bảo tồn đến ngày nay: • Con người vẫn sử dụng dương lịch để tính ngày. • Sử dụng hệ thống chữ cái và chữ số La Mã • Áp dụng các định lí như ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clit, Ác-si-mét,... • Một số công trình kiến trúc như: Tượng lực sĩ ném đĩa, Đấu trường Cô-li-dê... vẫn còn được lưu giữ và trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng.

Tham khảo giải bài tập hay nhất

Loạt bài Lớp 6 hay nhất

xem thêm

Thành tựu Toán học của Hi Lạp cổ đại còn sử dụng đến ngày nay là:

-Tính chiều cao của cáckim tự thápdựa trên bóng của chúng trên mặt đát

-Khoảng cách của các con thuyền tính từ bến cảng

[HNM] -Toán học Hy Lạp cổ đại là toán học được viết bằng tiếng Hy Lạp trong giai đoạn khoảng từ năm 600 trước Công nguyên [TCN] đến năm 30 TCN. Trong đó, từ sau năm 332 TCN, Ai Cập thuộc Hy Lạp, có sự kế thừa và giao lưu văn hóa giữa các nền văn minh.
Thời kỳ này được gọi là Hy Lạp hóa, các nhà toán học Hy Lạp ở khắp vùng Địa Trung Hải có sự thống nhất về văn hóa và ngôn ngữ. Đồng thời, những tài liệu bằng tiếng Ai Cập được dịch sang tiếng Hy Lạp để kế thừa. Trong thời kỳ Hy Lạp hóa, các nhà toán học đã sử dụng thư từ hay gặp gỡ nhau để trao đổi, học hỏi, tạo ra một cộng đồng những người làm toán không đơn lẻ như những thời kỳ trước, góp phần làm cho toán học phát triển nhanh hơn. Nhiều thành tựu của toán học của Ai Cập, Ấn Độ, Babylon đã được những nhà toán học Hy Lạp tiếp thu, kế thừa trong quá trình đi học hỏi ở những vùng này. Các nhà toán học cổ Hy Lạp đã tạo ra một giai đoạn phát triển toán học rực rỡ trong lịch sử phát triển toán học của nhân loại, với những tên tuổi lớn tạo nền móng cho sự phát triển của toán học. Có thể kể đến những nhà toán học lớn Archimedes, Euclid, Aristotle, Platon, Pythagore, Thales, Eratosthenes, Diophantus, Menelaus, Apollonius, Hippocrates, Democritus, Heron, Hipparchus... Đặc điểm nổi bật của toán học giai đoạn này là một số tính chất toán học đã biết một cách đơn lẻ trước đó thì nay được quy nạp, chứng minh chặt chẽ bằng lập luận, để trở thành những định lý hay công thức tổng quát. Chẳng hạn, trước đó, nhiều nền toán học đã xuất hiện những bộ ba Pythagore nhưng nhà toán học này đã phát biểu và chứng minh thành một định lý mang tính tổng quát cho mọi tam giác vuông. Hay như bộ “Cơ sở” của Euclid, đặt nền móng cho việc ra đời của hình học. Cũng chính ông đã xây dựng thuật toán tìm ước số chung của hai số đếm bất kỳ trong số học. Trong thời kỳ này, Aristotle đã đặt cơ sở cho phân môn logic học, tạo cơ sở lý luận trong khoa học, còn Hipparchus thì đặt nền móng cho lượng giác. Thời kỳ này cũng đạt được một số tiến bộ về đại số, giải tích... Một đặc điểm nữa là toán học thời kỳ này có xu hướng hình học hóa, nghĩa là những bài toán ở lĩnh vực khác như số học, đại số thì đều được tìm cách giải bằng hình học. Thành tựu lớn của toán học nói riêng và khoa học, giáo dục nói chung của giai đoạn này là nhiều trường học đã được mở để dạy kiến thức khoa học cho nhiều người, trong đó có cả nữ giới. Những học sinh đã được truyền dạy lý tưởng khoa học, tạo động lực bản thân ham học hỏi tri thức. Nhiều kiến thức về toán học, triết học, vật lý, y học đã được truyền dạy trong các trường. Một số trường chuyên tâm nghiên cứu sâu về một lĩnh vực của toán học, tạo ra những trường phái toán học nổi tiếng. Có thể kể đến trường của Pythagore, Platon hay Thư viện Alexandria. Học viện của Platon là một trong những trung tâm của toán học thế giới thế kỷ IV TCN. Kết quả kỳ trước. Năm 1995, hai nhà khoa học người Pháp là Daniel Benest và J.L.Duvent công bố công trình trên tạp chí “Thiên văn học và Vật lí thiên văn” khẳng định dựa trên những quan sát trong hệ thống Sirius thì tồn tại một ngôi sao nhỏ thứ ba và gọi đó là Sao Thiên Lang C.

Kỳ này. Em hãy cho biết công thức Heron dùng để tính gì? Câu trả lời gửi về chuyên mục “Toán học, học mà chơi”, Tòa soạn Báo Hànộimới, 44 Lê Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Video liên quan

Chủ Đề