Uống thuốc tâm thần bao lâu

Uống thuốc chữa tâm thần trong bao lâu?

"Tôi có cháu bị tâm thần phân liệt, được điều trị hơn một năm nay. Cháu phải uống thuốc liên tục và khám định kỳ theo hẹn của bác sĩ. Chúng tôi rất lo lắng không biết cháu phải uống thuốc đến bao giờ?".

Trả lời:

Bệnh tâm thần phân liệt là bệnh tiến triển từ từ, mạn tính, với các thiếu sót tăng dần và dễ tái phát theo đợt. Vì vậy, bệnh nhân cần phải uống thuốc kéo dài nhằm mục đích điều trị các triệu chứng đợt cấp và dự phòng tái phát.

Tuy nhiên, việc uống thuốc gì, trong thời gian bao lâu, liều lượng như thế nào còn phụ thuộc vào bệnh, thể bệnh, giai đoạn bệnh và do bác sĩ điều trị quyết định. Nói chung, bệnh nhân sẽ phải uống thuốc trong thời gian dài, có người phải uống vài năm thậm chí phải cả đời. Trong khi uống thuốc, bệnh nhân vẫn có thể làm việc, học tập và duy trì các quan hệ xã hội bình thường và điều quan trọng nhất là phải đến khám định kỳ theo hẹn của bác sĩ.

(Sức Khỏe & Đời Sống)

Trở lại Sức khỏeTrở lại Sức khỏe
Chia sẻ Copy link thành công

Chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt

Bác sĩ chuyên khoa tâm thần là người khám và đưa ra chẩn đoán về tình trạng bệnh. Họ sẽ xem xét hồ sơ bệnh án, hỏi bệnh nhân các câu hỏi về các triệu chứng hiện tại và quá khứ, quan sát các chức năng cơ thể, có thể hỏi thêm tiền sử gia đình về bệnh tâm thần của người bệnh.

Để nhận được chẩn đoántâm thần phân liệt, một người phải trải qua các triệu chứng bệnh trong hơn một tháng, các triệu chứng bao gồm:

  • Có những suy nghĩ ảo tưởng
  • Gặp ảo giác
  • Có lời nói hoặc hành vi vô tổ chức
  • Không vệ sinh sạch sẽ
  • Không có hứng thú với các hoạt động
  • Thiếu biểu cảm trên khuôn mặt

Bác sĩ tâm thần cũng sẽ loại trừ các chẩn đoán cho bệnh khác, ví dụ như: rối loạn phân liệt cảm xúc, rối loạn lưỡng cực, và kiểm tra chắc chắn các triệu chứng không phải do thuốc đang sử dụng hoặc một bệnh nào khác.

Khi một người được chẩn đoán tâm thần phân liệt, bác sĩ tâm thần có thể kê đơn thuốc cho người đó để bắt đầu điều trị các triệu chứng. Bác sĩ cũng có thể giới thiệu bệnh nhân đến một chuyên gia trị liệu hoặc tư vấn viên về tâm lý trị liệu, hoặc một nhóm điều trị, để hỗ trợ điều trị hoặc giám sát.

Uống thuốc tâm thần bao lâu

Tuân thủ dùng thuốc ở người loạn thần nặng

Thuốc tâm thần phân liệt: Hiểu để dùng đúng, hiệu quả, an toàn

Nguyên nhân

Mặc dù nguyên nhân cụ thể không được biết rõ, tâm thần phân liệt có một cơ sở sinh học, được minh chứng bằng

  • Sự thay đổi cấu trúc não (ví dụ, dãn rộng não thất, lớp vỏ não mỏng, giảm kích thước của hồi hải mã phía trước và các vùng não khác)

  • Sự thay đổi các chất dẫn truyền thần kinh, đặc biệt là sự thay đổi hoạt tính của dopamin và glutamat

Một số chuyên gia cho rằng tâm thần phân liệt xuất hiện ở những người có đặc tính dễ bị tổn thương về phát triển thần kinh và sự khởi phát, thuyên giảm và tái phát các triệu chứng là kết quả của những tương tác giữa những đặc tính dễ tổn thương và những yếu tố căng thẳng của môi trường.

Tính dễ bị tổn thương về phát triển thần kinh

Tính dễ bị tổn thương có thể là kết quả của

  • Khuynh hướng di truyền

  • Các biến chứng trước, trong và sau sinh

  • Các viêm nhiễm hệ thần kinh trung ương do virut

Mẹ thiếu dinh dưỡng và nhiễm cúm trong quý hai của thai kỳ, cân nặng khi sinh < 2500 g, Rh không tương thích trong lần mang thai thứ hai, và thiếu oxy làm tăng nguy cơ.

Mặc dù hầu hết những người bị tâm thần phân liệt không có tiền sử gia đình, các yếu tố di truyền đã được chỉ ra. Những người có quan hệ họ hàng bậc 1 với người bệnh tâm thần phân liệt có khoảng 10% nguy cơ phát triển rối loạn này, so với 1% nguy cơ trong quần thể chung. Các cặp song sinh cùng trứng có tính đồng nhất vào khoảng 50%.

Các trắc nghiệm thần kinh và thần kinh tâm thần có độ nhạy cao cho thấy rằng vận động nhìn đuổi theo bất thường, suy giảm nhận thức và chú ý, và sự tiếp nhận của giác quan bị thiếu hụt xảy ra phổ biến hơn ở những bệnh nhân tâm thần phân liệt hơn so với dân số chung. Những điểm nhấn mạnh này (kiểu nội hình) cũng xảy ra trong số những người họ hàng bậc 1 của những người bị tâm thần phân liệt và có thể là cấu phần di truyền của tính dễ bị tổn thương.

Những yếu tố căng thẳng của môi trường

Những yếu tố căng thẳng có thể gây ra sự xuất hiện hoặc tái phát các triệu chứng ở những người dễ bị tổn thương. Các yếu tố căng thẳng có thể chủ yếu là sinh hóa (ví dụ, lạm dụng chất, đặc biệt là cần sa) hoặc xã hội (ví dụ như bị thất nghiệp hoặc nghèo túng, rời khỏi nhà đi học đại học, sự tan vỡ của một mối quan hệ lãng mạn, gia nhập Lực lượng Vũ trang); tuy nhiên, những yếu tố căng thẳng này không phải là nguyên nhân. Không có bằng chứng nào chứng minh rằng tâm thần phân liệt gây ra do kém nuôi dạy từ cha mẹ.

Các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm tác động của stress lên sự hình thành triệu chứng hoặc tính trầm trọng bao gồm hỗ trợ xã hội tốt, các kỹ năng ứng phó và thuốc chống loạn thần Điều trị Tâm thần phân liệt được đặc trưng bởi loạn thần (mất liên hệ với thực tại), ảo giác ( các tri giác sai), hoang tưởng (các niềm tin sai lạc), tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, cảm xúc thờ ơ vô... đọc thêm .

Lựa chọn và Sử dụng Thuốc

Sự lựa chọn thuốc có thể khó khăn bởi vì tất cả các thuốc có tác dụng phụ đáng kể, tương tác thuốc là phổ biến, và không có thuốc nào có hiệu quả toàn diện. Sự lựa chọn nên dựa trên những gì đã có hiệu quả và được dung nạp tốt ở một bệnh nhân nhất định. Nếu chưa từng được điều trị trước đó (hoặc không biết), sự lựa chọn dựa trên tiền sử bệnh của bệnh nhân (đối với các tác dụng không mong muốn của thuốc chỉnh khí sắc cụ thể) và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.

Đối với hưng cảm nặng có loạn thần, trong đó sự an toàn và quản lý bệnh nhân được đặt ưu tiên, kiểm soát hành vi nguy hiểm thường cần một thuốc an thần kinh an dịu thế hệ 2 Các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ hai Tâm thần phân liệt được đặc trưng bởi loạn thần (mất liên hệ với thực tại), ảo giác ( các tri giác sai), hoang tưởng (các niềm tin sai lạc), tư duy và ngôn ngữ thiếu tổ chức, cảm xúc thờ ơ vô... đọc thêm , đôi khi ban đầu được bổ sung thêm một benzodiazepin như lorazepam hoặc clonazepam từ 2 đến 4 mg tiêm bắp hoặc đường uống 3 lần một ngày.

Đối với giai đoạn cấp tính ít nghiêm trọng hơn, ở những bệnh nhân không có chống chỉ định (ví dụ: các rối loạn về thận), lithium là một lựa chọn tốt cho cả chứng hưng cảm và trầm cảm. Do hiệu quả thuốc xuất hiện chậm (4 đến 10 ngày), bệnh nhân có triệu chứng đáng kể cũng có thể dùng thuốc chống động kinh hoặc thuốc an thần kinh thế hệ 2.

Đối với bệnh nhân trầm cảm, lamotrigin có thể là một lựa chọn tốt trong số các thuốc chống động kinh.

Cho trầm cảm lưỡng cực, các bằng chứng tốt nhất cho thấy sử dụng quetiapin hoặc lurasidon đơn thuần hoặc sự kết hợp của fluoxetin và olanzapin.

Một khi đạt được sự thuyên giảm, điều trị dự phòng thuốc chỉnh khí sắc được chỉ định cho tất cả các bệnh nhân lưỡng cực I. Nếu các đợt tái phát trong khi điều trị duy trì, bác sĩ lâm sàng nên xác định mức độ tuân thủ, và nếu có, việc không thủ đó đi trước hay sau sự tái phát giai đoạn bệnh. Các lý do của sự thiếu tuân thủ nên được tìm để xác định có cần thiết thay đổi thuốc chỉnh khí sắc hay thay đổi liều lượng sẽ làm cho việc điều trị được chấp nhận hơn.

Tâm thần phân liệt và thuốc điều trị

Đọc bài Lưu
Bệnh tâm thần phân liệt là một bệnh lý rối loạn tâm thần nặng, gặp trong cộng đồng với tỷ lệ khoảng 0,3-0,8 % dân số. Bệnh khởi phát có thể từ từ, âm ỉ làm cho người nhà bệnh nhân không để ý,

Bệnh tâm thần phân liệt là một bệnh lý rối loạn tâm thần nặng, gặp trong cộng đồng với tỷ lệ khoảng 0,3-0,8 % dân số. Bệnh khởi phát có thể từ từ, âm ỉ làm cho người nhà bệnh nhân không để ý, khiến việc phát hiện bệnh thường muộn hoặc cũng có thể khởi phát một cách rất đột ngột và các triệu chứng biểu hiện rầm rộ ngay trong một vài ba ngày đầu tiên. Lúc này bệnh nhân có đầy đủ những triệu chứng khác thường trong hành vi, lời nói, tình cảm...

Uống thuốc tâm thần bao lâu

Nguyên nhân

Nguyên nhân gây bệnh tâm thần phân liệt được cho là sự phối hợp của nhiều yếu tố như di truyền, sang chấn tâm lý, những bất thường về sọ não... Qua nhiều nghiên cứu, người ta thấy có sự thay đổi về sinh hóa não ở những bệnh nhân tâm thần phân liệt : sự hoạt động quá mức của hệ thống dopaminergic và hệ thống serotonin, vì vậy việc điều trị bệnh tâm thần phân liệt bằng thuốc là dựa trên cơ chế lập lại sự hoạt động cân bằng của các hệ thống này.

Hiện nay, dùng các loại thuốc an thần kinh để điều trị bệnh lý này là một biện pháp quan trọng, bên cạnh đó còn có những biện pháp tâm lý trị liệu phối hợp, tái hoà nhập bệnh nhân với xã hội, với cộng đồng.

Và những lưu ý khi điều trị

Để điều trị bệnh tâm thần phân liệt cần đạt được 3 mục tiêu sau đây:

- Làm giảm hoặc loại trừ hoàn toàn các triệu chứng của bệnh.

- Làm cho chất lượng cuộc sống của người bệnh và những chức năng thích nghi về xã hội của bệnh nhân đạt ở mức độ tối đa.

- Bảo đảm được những mục đích cho cuộc sống cá nhân của người bệnh như là trong công việc, sinh hoạt cá nhân, việc hằng ngày trong gia đình và những mối quan hệ xã hội.

Việc điều trị cần phải có tư vấn của bác sĩ chuyên khoa vì trong điều trị đôi khi gặp phải những tác dụng phụ rất nguy hiểm và rất khó chữa, ví dụ như rối loạn vận động muộn do thuốc an thần kinh. Loại thuốc thường gây ra tác dụng này là haloperidol, một loại an thần kinh cổ điển được dùng tương đối phổ biến. Khi người bệnh dùng lâu, kéo dài haloperidol (trên 4 tháng) dễ gặp phải tác dụng phụ là rối loạn vận động muộn: các vận động không tự chủ ở lưỡi, cằm, đầu chi, hay gặp nhất là ở vùng miệng, mặt, ngón chân tay, run ở quanh miệng như kiểu mõm thỏ, có những động tác múa vờn, uốn éo, định hình, những động tác múa giật.

Một trong những đặc trưng của bệnh lý tâm thần là cần phải dùng thuốc lâu dài. Trong quá trình khám chữa bệnh tại bệnh viện, chúng tôi thường gặp những câu hỏi của bệnh nhân, người nhà bệnh nhân như: dùng thuốc đến bao giờ, dùng lâu có nguy hiểm gì không? Tại sao khi bệnh nhân gần như ổn định có thể sinh hoạt được bình thường mà vẫn phải dùng thuốc? Ngừng thuốc sẽ nguy hiểm như thế nào? Theo nhiều nghiên cứu khác nhau cho thấy khi bệnh nhân đã qua khỏi giai đoạn bệnh lý cấp tính, người bệnh trong tình trạng sinh hoạt gần như bình thường thì việc điều trị duy trì vẫn phải tiếp tục nhằm mục đích ngăn ngừa tái phát bệnh và làm cho bệnh nhân tuân thủ chế độ điều trị tốt hơn. Việc sử dụng tiếp tục thuốc an thần kinh có thể làm tỉ lệ tái phát thấp hơn 30% trong một năm và nếu không dùng thuốc duy trì thì tỷ lệ tái phát có thể lên đến 60-70% trong vòng một năm đầu và khoảng 90% trong vòng năm thứ hai. Đối với những bệnh nhân có nhiều đợt tái phát hoặc tái phát hai lần trong thời gian 5 năm thì việc dùng thuốc cần phải duy trì với thời gian là không xác định. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, kể cả khi bệnh nhân tuân thủ điều trị một cách nghiêm túc thì tỷ lệ tái phát vẫn khoảng 30% trong vòng một năm.

Bên cạnh việc dùng thuốc duy trì, những liệu pháp về tâm lý xã hội cũng rất quan trọng trong giai đoạn này. Gia đình bệnh nhân cần nhận biết được những biểu hiện tái phát sớm của bệnh như ngủ kém, khó tập trung chú ý, hay căng thẳng và dễ bị kích thích, bồn chồn, bất an, tính tình nghi ngờ. Những dấu hiệu này thường xảy ra sau những stress về tâm lý, vì vậy cần tránh cho người bệnh gặp phải những căng thẳng trong cuộc sống. Một biện pháp quan trọng nữa là làm cho người bệnh hòa nhập tái thích ứng xã hội: làm những công việc phù hợp với mình, tự chăm sóc bản thân, làm các việc trong cuộc sống hằng ngày như nấu cơm, quét dọn nhà cửa, vệ sinh cá nhân, giao tiếp với mọi người xung quanh, tham gia các hoat động vui chơi giải trí...

Theo: Báo SKĐS


Nguồn: soyte.hatinh.gov.vn
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết