Đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu

Pháp luật cho phép mọi người tự do giao dịch dân sự hợp pháp với nhau, không hạn chế quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà vẫn xảy ra rất nhiều các giao dịch dân sự không hợp pháp, bị Tòa án tuyên vô hiệu. Bài viết sau đây sẽ đưa ra các trường hợp giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu được quy định theo Bộ luật dân sự 2015 hiện hành.

Giao dịch dân sự là gì?

Điều 116 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự?

Theo Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cần có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp nào?

Điều 122 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.

Như vậy, có thể chia giao dịch dân sự vô hiệu thành các trường hợp sau:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội [Điều 123 Bộ luật dân sự 2015]Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Ví dụ: Giao dịch mua bán và vận chuyển vũ khí vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, cụ thể là vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 304 Bộ luật hình sự 2015.

2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo [Điều 124 Bộ luật dân sự 2015]Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.

Ví dụ: A bán cho B một căn nhà, các bên thỏa thuận giá trị của ngôi nhà là 1.500.000.000 đồng. Nhưng hai bên đã lập một hợp đồng trong đó chỉ ghi giá trị của ngôi nhà là 1.000.000.000 đồng để gian lận việc nộp phí trước bạ sang tên. Như vậy, hợp đồng ghi giá trị ngôi nhà là 1.000.000.000 đồng bị coi là hợp đồng giả tạo.

3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện [Điều 125 Bộ luật dân sự 2015]Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ những trường hợp sau:a] Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;b] Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;c] Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Anh A bị tâm thần do tai nạn từ tháng 9/2015. Ngày 15/06/2016, do biết anh A có sở hữu một mảnh đất ngay trung tâm thành phố nên anh B [bạn anh A] đã lợi dụng và dụ dỗ anh A ký vào hợp đồng mua bán mảnh đất đó. Biết được sự việc, gia đình anh A đến gặp anh B để nói chuyện nhưng anh B không những không hủy hợp đồng mà còn dọa sẽ kiện lại gia đình anh A. Trong trường hợp này, mặc dù hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất có chữ ký của chủ sở hữu là anh A, nhưng anh A là người mất năng lực hành vi dân sự nên hợp đồng vô hiệu. Mảnh đất vẫn thuộc quyền sở hữu của anh A.

4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn [Điều 126 Bộ luật dân sự 2015]Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp sau:Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

Ví dụ: A kí hợp đồng mua 100 bộ chén của B, hai bên đã có sự thỏa thuận về giá cả và thời điểm giao hàng. Đến ngày giao hàng, do khác biệt về ngôn ngữ vùng miền nên thay vì nhận được chén [là loại bát nhỏ dùng ăn cơm theo cách gọi của người miền Nam] thì A lại nhận được 100 bộ chén uống trà [theo cách gọi chén của người miền Bắc ] từ B. Trong trường hợp này, A và B có thể khắc phục bằng cách giữ nguyên hàng hóa và thống nhất lại đối tượng của giao dịch. Nếu cả 2 bên không đồng ý điều này, giao dịch bị tuyên bố vô hiệu.

5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép [Điều 127 Bộ luật dân sự 2015]Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

Ví dụ: Anh A được bố mẹ mua cho 1 chiếc xe máy đời mới với giá 200 triệu đồng. Sau 1 tháng, anh B ngỏ ý muốn mua lại với giá 100 triệu nhưng anh A không đồng ý. Anh B dọa nếu không bán cho anh ta với giá này, anh ta sẽ nói chuyện bố anh A ngoại tình với mọi người. Anh A sợ ảnh hưởng đến gia đình nên đã bán chiếc xe cho anh B với giá 100 triệu. Trong trường hợp này, giao dịch bán xe vô hiệu vì anh A không tự nguyện thực hiện hợp đồng. Anh A bán xe do anh B đe dọa đưa thông tin cá nhân làm ảnh hưởng xấu đến gia đình anh A ra ngoài.

6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình [Điều 128 Bộ luật dân sự 2015]Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Ví dụ: trong khi say rượu A đã ký hợp đồng với B bán quyền sử dụng đất mà A đang sở hữu cho B với giá chỉ bằng 1/3 giá thị trường tại thời điểm đó. Trong trường hợp này, giao dịch vô hiệu do tại thời điểm xác lập giao dịch, A không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức [Điều 129 Bộ luật dân sự 2015]Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:a] Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.b] Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

Ví dụ: A góp vốn vào công ty của B bằng quyền sử dụng đất của mình. Tuy nhiên, hợp đồng góp vốn kinh doanh chỉ có chữ ký của 2 bên mà không được chứng thực. Trong trường hợp này, hợp đồng góp vốn vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”. Vậy, để đảm bảo được quyền lợi của mình cũng như tránh các rủi ro có thể gặp sau này, A cần phải công chứng/ chứng thực hợp đồng này.


Người thực hiện giao dịch dân sự cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật để tránh trường hợp giao dịch bị tuyên bố vô hiệu xảy ra.

Bài viết liên quan

Hiện nay, khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu thường được sử dụng khi thực hiện, ký kết các hợp đồng. Vậy nên hiểu khái niệm này thế nào?


Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?

Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự [theo Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015].

Theo đó, Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu rõ:

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Các điều kiện nêu tại Điều 117 Bộ luật Dân sự là các điều kiện để một giao dịch dân sự có hiệu lực. Cụ thể, một giao dịch nếu có đầy đủ tất cả các điều kiện sau đây thì sẽ được coi là có hiệu lực:

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Đáng chú ý: Nếu luật yêu cầu về hình thức của giao dịch dân sự thì các giao dịch phải đáp ứng đủ các điều kiện này.

Ví dụ, theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014,  khi mua bán, tặng cho, thế chấp nhà ở… phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng thì ngoài điều kiện có hiệu lực nêu trên, các hợp đồng này còn phải được công chứng, chứng thực.

Như vậy, một giao dịch bị coi là vô hiệu nếu không đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên.

Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? [Ảnh minh họa]


Các trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu

Căn cứ vào Bộ luật Dân sự năm 2015, trong các trường hợp sau đây, giao dịch dân sự sẽ bị coi là vô hiệu:

- Do mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội [Điều 123]: Trong đó, điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép thực hiện; Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

- Do giả tạo [Điều 124]: Khi xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo để che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu.

Ví dụ: Hai bên ký hợp đồng ủy quyền nhằm che giấu mục đích thật sự của giao dịch đó là mua bán tài sản thì hợp đồng ủy quyền sẽ vô hiệu nhưng hợp đồng mua bán tài sản vẫn có hiệu lực nếu nó không bị vô hiệu.

- Do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện [Điều 125]: Nếu người đại diện của người đó yêu cầu thì Tòa án sẽ tuyên giao dịch đó vô hiệu trừ trường hợp:

+ Giao dịch dân sự của người chưa đủ 06 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

+ Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;

+ Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.

- Do bị nhầm lẫn [Điều 126]: Vì có sự nhầm lẫn khiến một bên hoặc các bên không đạt được mục đích và bên bị nhầm lẫn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu trừ trường hợp mục đích của các bên đã đạt được hoặc có thể khắc phục được sự nhầm lẫn này làm mục đích của giao dịch vẫn đạt được.

- Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép [Điều 127]: Khi một bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch đó vô hiệu:

+ Lừa dối là hành vi cố ý nhằm làm bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch đã xác lập.

+ Đe dọa, cưỡng ép là hành vi cố ý nhằm khiến bên kia phải thực hiện giao dịch để tránh thiệt hại cho mình hoặc người thân thích của mình.

- Do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình [Điều 128]: Thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm người có năng lực hành vi dân sự không nhận thức và làm chủ hành vi của mình.

- Do không tuân thủ quy định về hình thức [Điều 129]: Nếu giao dịch phải đáp ứng điều kiện về hình thức mới có hiệu lực thì phải đáp ứng yêu cầu về hình thức này. Ngược lại, nếu không thực hiện đúng như lẽ ra giao dịch phải được thực hiện bằng văn bản nhưng văn bản đó không đúng quy định hoặc bắt buộc phải có công chứng, chứng thực nhưng các bên không thực hiện... thì giao dịch đó sẽ vô hiệu.

Dù vậy, khi một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch đó thì có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch.

Đặc biệt, giao dịch dân sự còn có thể bị vô hiệu từng phần khi phần bị vô hiệu đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại.

Trên đây là giải đáp về giao dịch dân sự vô hiệu. Nếu còn băn khoăn, bạn vui lòng gửi câu hỏi cho chúng tôi để được hỗ trợ.

Video liên quan

Chủ Đề