Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai

Đồng chí là một bài thơ xuất sắc trong kho tàng thơ ca giai đoạn chống Pháp. Đây cũng là bài thơ tạo nên tên tuổi cho nhà thơ Chính Hữu. Để có thể hiểu rõ hơn về bài thơ này, mời các em tham khảo bài viết phân tích bài thơ Đồng chí lớp 9 cùng trường Edison nhé.

       I. Dàn ý

1.  Mở bài:

Các em có thể chọn các cách mở bài khác nhau:

– Dẫn dắt về tác giả và giới thiệu về bài thơ “Đồng chí”.

– Trích dẫn một nhận định hay về nhà thơ Chính Hữu hoặc bài thơ “Đồng chí”.

– Trích dẫn một câu thơ hay về người lính hoặc chiến tranh của những tác giả khác, để liên hệ sang bài Đồng chí.

2. Thân bài:

a. Tình đồng chí được hình thành từ các cơ sở:

– Chung hoàn cảnh xuất thân: 

+ Quê anh: Nước mặn đồng chua

+ Làng tôi: Nghèo, đất cày lên sỏi đá

→ Cả hai đều xuất thân từ nghèo khó.

– Chung lý tưởng chiến đấu: Hai người xa lạ nhưng có chung một lý tưởng là bảo vệ Tổ quốc “Súng bên súng đầu sát bên đầu”.  “Súng” là đại diện cho chiến trường, “đầu” là suy nghĩ, tình cảm của người lính. Đây là câu thơ thể hiện sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, cùng chung nhiệm vụ.

– Chung hoàn cảnh thiếu thốn vật chất “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”: Điều kiện sống nơi chiến trường thiếu thốn, hai người phải chia nhau tấm chăn nhỏ. Nhưng chính nhờ những đêm giá rét, thiếu thốn ấy mà hai con người xa lạ trở thành tri kỉ của nhau.

 b. Những biểu hiện của tình đồng chí:

– Thấu hiểu nỗi tâm tư của nhau, hiểu hoàn cảnh xa nhà, xa quê hương đi chiến đấu.

– Cùng trải qua bệnh tật: biết từng cơn ớn lạnh, sốt run người, trán ướt mồ hôi.

– Chia sẻ khó khăn: Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, chân không giày.

→  Dù khó khăn, bệnh tật, thiếu thốn nhưng không điều gì ngăn được tình đồng đội cao đẹp của những người lính.

c. Bức tranh đẹp về người lính:

– Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới: Tâm thế chủ động “chờ giặc”, hiên ngang như bức tượng đài tráng lệ. Họ đã sát cánh bên nhau trong đêm “rừng hoang”, “sương muối” nhưng tình đồng chí ấm áp đã giúp người chiến sĩ quên đi cái lạnh, quên đi sợ hãi.

– Đầu súng trăng treo: Súng là hiện thực chiến tranh, trăng đại diện cho cái đẹp, cho hòa bình. Hai hình ảnh lồng vào làm một, tạo nên biểu tượng đẹp cho người lính: Vừa hào hùng vừa lãng mạn.

3. Kết bài:

Các em có thể lựa chọn nhiều cách kết bài khác nhau: Khẳng định giá trị sâu sắc của bài thơ hoặc khẳng định lại tài năng tác giả.

   II. Bài văn tham khảo: Phân tích bài thơ Đồng chí lớp 9

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai

Bài 1:

Nhà thơ Chính Hữu là “nhà thơ quân đội thực thụ”, ông trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc. Chính Hữu viết nhiều và viết rất hay về những người lính. Dường như xuyên suốt cả cuộc đời và sự nghiệp của mình, ông đã dành trọn tình yêu cho sắc xanh áo lính. Bài thơ “Đồng chí” là tác phẩm làm nên tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu. Chính Hữu đã đưa những nét vẽ tài tình để tạo nên bức tranh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp – vừa hào hùng vừa lãng mạn, cháy nồng trong tim tình yêu nước và tinh thần đồng đội thiết tha.

Nhà thơ Chính Hữu sinh năm 1926. Ông tham gia cách mạng từ năm 1945, góp mặt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Bài thơ “Đồng Chí” được sáng tác năm 1948, lấy cảm hứng từ trải nghiệm của chính nhà thơ khi ông tham gia vào chiến dịch Việt Bắc cùng đồng đội. “Đồng chí” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất viết về người lính trong thời kháng chiến chống Pháp.

Người lính trong “Đồng chí” hiện lên qua hình ảnh thơ vô cùng bình dị. Họ là những người xa lạ, từ những miền quê khác nhau về đây tụ họp, tạo nên tình đồng chí.

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai

Tác giả đã rất tinh tế khi sử dụng cặp từ xưng hô “anh – tôi”. Gọi “anh” xưng “tôi” thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho người đồng đội của mình. Một tiếng “anh” như kéo hai người xa lạ lại gần nhau hơn. Họ đến từ nhiều miền quê khác nhau, nghe theo tiếng gọi Tổ quốc mà về đây tụ họp. Một nơi là miền “nước mặn đồng chua”, một nơi là vùng “đất cày lên sỏi đá”, hai địa phương khác nhau nhưng có chung một cái nghèo, cái vất vả. Có lẽ cảnh nghèo, sự thấu hiểu nỗi vất vả của nhau khiến các anh thấy gần gũi, thân thiết hơn, tạo nền tảng hình thành nên “tình đồng chí”. Họ không hẹn mà gặp, đều nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà lên đường trở thành người lính, từ những người xa lạ không biết mặt biết tên trở nên thân thiết hơn, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau:

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai

Không chỉ có chung hoàn cảnh xuất thân, lý tưởng bảo vệ Tổ quốc cao đẹp cũng đã đưa những trái tim hòa chung một nhịp.

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai
Súng là đại diện cho nhiệm vụ chiến đấu, đầu là biểu tượng của suy nghĩ, tâm tư người lính. Hai người lính đã kề vai sát cánh để thực thi nhiệm vụ, vượt qua mọi nguy hiểm nơi chiến trường. Họ cùng chung lý tưởng, chung chí hướng, thấu hiểu nỗi tâm tư của nhau. Tác giả đã khéo léo dùng biện pháp tiểu đối “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” và biện pháp hoán dụ “đầu sát bên đầu” để gợi lên sự chia sẻ, gắn bó như tri kỷ tâm giao, lúc nào cũng có nhau, lúc nào cũng hiểu nhau.

Tình đồng chí như càng bền chặt hơn qua những lần sẻ chia khó khăn, ngọt bùi nơi chiến trường.

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai
Sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất của bộ đội ta những năm đầu đánh Pháp đã được tác giả tinh tế gợi lên qua hình ảnh “đêm rét chung chăn”. Bộ đội đóng quân ở rừng, đêm xuống trời rét cắt da cắt thịt nhưng lại chỉ có một tấm chăn mỏng. Những người lính đã chia nhau cùng đắp tấm chăn nhỏ nhưng đầy ắp sự yêu thương, sẻ chia. Tưởng như khó khăn sẽ khiến người lính chùn bước, nản lòng. Nhưng không, khó khăn thì ta chia sẻ, khắc phục, chính khó khăn đã giúp tình đồng chí thăng hoa hơn, trở thành tri kỷ của nhau. Người ta nói rằng tình bạn lúc khó khăn chính là tình bạn chân thành và bền chặt nhất.

Khổ thơ khép lại bằng hai tiếng “Đồng chí !”. Không dài dòng, hoa mỹ, chỉ hai từ thôi nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Tiếng gọi “đồng chí” rất trang nghiêm nhưng cũng vô cùng gần gũi. Giọng thơ trầm xuống tạo cảm giác thiêng liêng, cao quý của tình đồng đội. Dấu chấm than đặt ở cuối câu khiến câu thơ giàu cảm xúc hơn, giống như một tiếng gọi, lời chào thân thương dành cho đồng đội. Chính Hữu không dùng nhiều từ, nhưng đã dùng từ thật “đắt”. Hai từ “Đồng chí” như chiếc bản lề, khép lại sự hình thành tình đồng chí để mở ra trang thơ mới – trang thơ của tình cảm tha thiết, quý giá giữa những người lính với nhau.

Tình đồng chí được gắn kết bằng sự thấu hiểu những tâm tư, suy nghĩ của nhau:

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai
Những người lính mới hôm qua còn tay cày, tay cuốc, nay nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc yêu thương mà lên đường ra trận. Ruộng nương – thứ quý giá nhất của người nông dân nay phải “gửi bạn thân cày”, gian nhà cũng bị “gió lung lay”. Trong tâm trí họ chắc chắn vẫn nặng nỗi nhớ quê. Thế nhưng tình yêu đất nước đã được đặt lên trên tất cả. Họ sẵn sàng gửi lại những gì quý giá thân thiết nhất của cuộc sống để ra đi vì nghĩa lớn. Hai từ “mặc kệ” đã thể hiện được tinh thần lạc quan, dứt khoát của người lính. Nặng lòng với quê nhưng không quên việc nước, dứt khoát vì Tổ quốc nhưng vẫn không quên tình quê hương. Hai dòng chảy yêu quê và yêu nước vẫn song hành trong tim người chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh để các anh lên đường. Tác giả đã tinh tế sử dụng hình ảnh “giếng nước gốc đa” – biểu tượng của làng quê Việt Nam để gợi lên hình ảnh quê hương. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã giúp bày tỏ nỗi niềm nhớ nhung của nơi hậu phương gửi người tiền tuyến. Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

Tình đồng chí không chỉ là sự chia sẻ tâm tư mà còn là lúc cùng nhau vượt qua gian khó.

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai
Bộ đội thường phải đóng quân trong rừng sâu. Nơi rừng hoang nước độc, các anh không những khó khăn về vật chất mà còn phải chống chọi với bệnh tật, trải qua những cơn sốt rét rừng nguy hiểm: “từng cơn ớn lạnh ” “vừng trán ướt mồ hôi”. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng viết “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Cái đói và bệnh sốt rét khiến tóc mọc không nổi, da xanh như màu lá. Thế mới biết được sự khó khăn và thiếu thốn của bộ đội ta ngày xưa lớn đến nhường nào. Ta càng thêm biết ơn và tự vào về những người chiến sĩ đã hy sinh cuộc sống riêng vì nghĩa lớn dân tộc.

Cuộc sống chiến đấu gian khổ cũng được tác giả miêu tả chân thực qua những câu thơ:

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai
Bằng những câu thơ gợi hình đầy chân thực và xúc động cùng thủ pháp liệt kê, câu thơ đã diễn tả được nỗi vất vả, thiếu thốn của người lính thời chống Pháp. Nơi rừng sâu giá lạnh nhưng các anh cũng chỉ mặc trang phục mong manh, “áo rách vai”, “quần vá” , “chân không giày”. Dù thiếu thốn nhưng tình thần của người lính vẫn luôn lạc quan, dẫu cho áo có rách, quần vá, trời buốt giá thì trên môi người lính vẫn nở nụ cười.

Và giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề, tình đồng đội vẫn luôn rực cháy “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm từ bàn tay đồng đội đã tạo nên sức mạnh để đưa người lính vượt qua giá rét, vượt qua gian khổ. Họ không giàu sang về vật chất, chỉ có đôi bàn tay thôi nhưng tình cảm vẫn rất cao quý và thiêng liêng, dường như trong cái khổ, tinh thần đồng đội lại càng thắm thiết..

Khổ thơ cuối tạo nên biểu tượng đẹp cho tình đồng đội.

Tại sao dùng từ đôi mà không phải là từ hai
Vượt lên trên tất cả khó khăn, trái tim người lính vẫn tràn đầy nhiệt huyết, đứng canh gác dù đêm khuya, sương lạnh. Tâm thế “chờ giặc” thể hiện sự chủ động, hiên ngang của người chiến sĩ. Họ lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Câu thơ cuối khép lại bài thơ thật đặc biệt. Câu thơ chỉ có 4 chữ, ngắn gọn, súc tích, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Khi ấy có lẽ đêm đã về khuya, ánh trăng từ từ hạ xuống như treo trên mũi súng. Một hình ảnh thật nên thơ! Trăng và súng là hình ảnh mang tính biểu tượng. Súng là đại diện cho chiến tranh, cho nhiệm vụ, trăng là hình ảnh thơ mộng, là cái đẹp của cuộc sống. Trong cuộc chiến đấu gian khổ, người lính vẫn yêu đời, thưởng thức vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên. Tận hưởng cái đẹp của thiên nhiên nhưng vẫn không quên nhiệm vụ. Cái hiện thực xen vào thơ mộng, chất thép hòa với chất thơ tạo nên biểu tượng của người lính thời xưa: Hào hùng nhưng vẫn rất đối lãng mạn, vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ. Hình ảnh ánh trăng cũng là biểu tượng của yên bình, của độc lập, của ngày mai tươi sáng. Đây cũng chính là ước vọng và mục tiêu của những người chiến sĩ, mong cho Tổ quốc hòa bình.

Với lời thơ mộc mạc, chân thành, nhà thơ Chính Hữu đã mang đến một bài thơ thật đặc sắc cho kho tàng thơ ca chiến đấu. Chính Hữu viết về chiến tranh mà không có bom đạn, thế nhưng vẫn tạo được âm hưởng hào hùng, kiêu hãnh. Hình ảnh người chiến sĩ bình dị nhưng vẫn rất hào hùng cùng tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sẽ luôn ghi dấu trong lòng độc giả, để thế hệ mai sau mãi nhớ và tự hào về một thời khói lửa anh hùng.

Đề bài: Phân tích hình ảnh người lính cụ Hồ qua bài thơ “Đồng chí”

Trong bài thơ “Tuổi 25” Tố Hữu đã từng viết:

“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí

Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung

Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng

Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”

Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để “hút nhụy đời” tưới tắm cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một khoảng trời dành riêng cho văn học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi là hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất. Hình ảnh ấy đã đi vào lòng người và văn chương vơi tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ Hồ là bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng cũng như sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã diễn tả một cách sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của những anh bộ đội thời kháng chiến.

Bài thơ ra đời năm 1948, khi Chính Hữu là chính trị viên đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô. Với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; ngôn ngữ bình dị đời thường dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thong sâu sắc của một người chiến sĩ cách mạng làm thơ. Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc.

Ngòi bút tài hoa của Chính Hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính Hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là những người con của những vùng quê nghèo, là những người nông dân nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn “đất cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, dù cho nhà thơ không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của người dân làng quê Việt Nam.

Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, chia sẻ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nông dân chân nấm tay bùn. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo đói xô đẩy, mà do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả. Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng thân quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” của mình cũng thể hiện tình cảm này:

“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ

Gặp nhau hòi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi một hai

Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến”

Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. trước hết phải nói tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc.

Điều gì khiến cho những chàng trai quanh năm chỉ quen tay cày tay cuốc ấy đã hăng say lên đường cầm súng chiến đấu? Điều gì khiến những chiếc xe không kính ngày đêm lao đi trong mưa bom bão đạn? Điều gì khiến những cô gái vốn yếu mềm có thể hiên ngang chạm vào cái chết vô hình từ những quả bom? Đó chính là lòng chung thủy với quê hương, với mảnh ruộng nhà mình, với vợ con của mình:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Nhà phê bình Nguyễn Đức Quyền đã nhận xét: Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột ngôi nhà mình ở thì thật không còn từ ngữ nào để diễn tả hết tình cảm thiết tha của họ đối với gia đình mình. Thế đó, ai mà không mong muốn được sống yên vui, hạnh phúc trong mái ấm gia đình? Nhưng vì nghĩa lớn, họ ra đi không tiếc đời mình, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân yêu nhất. Cũng như vậy, ở ngoài mặt trận mà biết “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” chứng tỏ họ đang nhớ quê hương, nhớ người mình thương biết nhường nào! Mối giao cảm đậm đà sâu sắc ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường chiến đấu.

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khó khăn là vậy, khắc nghiệt là thế, hiện thực của chiến tranh với những cơn sốt rét rừng đã được rất nhiều nhà thơ miêu tả lại trong những trang viết của mình:

“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận

Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”

Ấy vậy mà các chiến sĩ của ta vẫn lạc quan, vẫn tin tưởng, không chùn bước trước bất cứ điều gì. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:

“Đêm nay rừng hoang sương muốI

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”. Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối” “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.

Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không gian. Hơi ấm ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản dị trong lời thơ Chính Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó mãi là dư âm không bao giờ cạn:

Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải chăng câu thơ là ước muốn, là hi vọng của Chính Hữu – người lính Cụ Hồ về một cuộc sống hoà bình, tươi đẹp? Sau đêm nay, sau giờ phút căng thẳng, lạnh buốt này sẽ là một sớm mai ấm áp với ánh bình minh sáng ngời Người chiến sĩ, với nhiệm vụ đã thành người thi sĩ với bao cảm hứng dạt dào. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng:

“Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”

Đáng trọng và đáng quí làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những vần thơ thật hay, thật đẹp và thú vị đến thế!

Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhịp điệu câu thơ, bài thơ đã khắc họa, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá đáng quý của anh bộ đội cụ Hồ, của tình đồng chí đồng đội bền chặt keo sơn, hòa nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng của văn học thời chống Pháp. Nhà văn Nga Ê ren-bua đã viết: Tình yêu nước bắt đầu từ lòng yêu những gì bình thường nhất. Yêu cái cây trồng trước ngõ, yêu lối nhỏ đổ ra bờ sông, yêu con sống đổ về biển cả… Vâng, tình yêu của người lính cụ Hồ cũng bắt nguồn từ những gì mộc mạc, chân chất, gần gũi nhất. Yêu ngôi nhà, yêu mảnh vườn, gốc đa, giếng nước, yêu con người… Đó chính là tình yêu Tổ quốc!

Lịch sử đã sang trang mới nhưng có lẽ hình ảnh những người nông dân mặc áo lính vẫn sống mãi trong lòng thế hệ mai sau. Vẻ đẹp của các anh, tinh thần của các anh sẽ chẳng thế bị bụi thời gian cuốn đi mất:

“Nếu được làm hạt giống để mùa sau

Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa

Vui gì hơn làm người lính đi đầu

Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa”

Bài viết thuộc team Chuyên môn HVCH

Bài 3:

Trên đường ra chiến dịch”

Hình tượng người chiến sĩ từ lâu đã đi vào văn chương, thơ ca như vậy với những tình cảm, phẩm chất đẹp đẽ. Có rất nhiều tác giả đã viết về nguời lính. Mỗi người đều có một giọng điệu riêng, cách viết riêng để làm nên tên tuổi của bản thân. Và Chính Hữu – người trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước cũng vậy, ông đã dồn hết tâm tư, tình cảm của mình để viết nên “Đồng chí”. Tác phẩm đã diễn tả thật cảm động mối tình đồng chí thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền văn học Việt Nam.

Đến với Đồng Chí là đến với bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tiêu biểu và thành công nhất của tác giả Chính Hữu. Thi phẩm được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải nghiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh. Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?

Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Xuyên suốt bài thơ, người đọc cảm nhận được một giọng thơ mộc mạc, chân thành tựa như lời tự sự thủ thỉ về cuộc sống, về những người chiến sĩ từ áo vải quần nâu đã một lòng đứng dậy chiến đấu giành tự do cho quê hương. Họ là những người dân bình thường, chân chất, cùng chung một cái nghèo, vì lý tưởng đã không quản gian lao ra đi và gặp nhau.

Đến với câu thơ “Anh với tôi đôi người xa lạ”, tác giả không sử dụng từ “hai” mà lại nói :đôi”. Thông thường từ “đôi” thường gắn với những danh từ như “đũa”, “chim”. Đã là “đôi” tức là bao giờ cũng phải gắn bó chặt chẽ với nhau, keo sơn, thắm thiết Chính Hữu dùng từ này để khẳng định tình thân giữa hai người, đồng thời làm lời thơ thêm giản dị gần với đời thường. Tuy nhiên đời thường nhưng không phải tầm thường, thô thiển bởi tác giả khéo léo chọn đưa ngôn ngữ cuộc sống thành ngôn ngữ văn chương. Trong bài thơ, hai lần tác giả dùng cụm từ “anh với tôi”. “Anh với tôi” là để soi vào nhau, nhận diện nhau để nhận ra chính mình. Cũng có những lúc, “anh” và “tôi” được tách riêng ra. Trong những lúc ấy, “anh” và “tôi” cũng vẫn giống nhau, vẫn dễ hòa làm. Anh với tôi đều giống nhau, đều là những người chiến sĩ dầm mưa dãi nắng, gai cào bùn dày, khuôn mặt cũng ám khói súng, sạm màu trận mạc, nào có gì khác nhau! Cái nét nghệ thuật tài tình của Chính Hữu có lẽ là ở đây.

Những người lính với lý tưởng sống cao đẹp đến với cách mạng cũng vì muốn đất nước được yên bình, độc lập. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào… Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc.

Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa những thứ quý giá nhất. Họ sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc nhưng họ đã vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm.

Không liệt kê, cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng đủ sức lay động hồn thơ, hồn người: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khôn nguôi với những người lính.Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau… Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi

Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phái chăng sự khó khăn vất vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm… Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa… Tình cảm ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:

“Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”

Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười – biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng…

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Nhịp thơ đều đều 2/2/2 – 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng.Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ: “Đầu súng trăng treo”. Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:

vầng trăng thành tri kỉ”

Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hòa vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.

Bằng thể thơ tự do, biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ, hình ảnh giản dị, giàu sức gợi, bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.

Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.

Bài 4:

Nhận xét bài thơ “Đồng chí”, có ý kiến cho rằng bài thơ nói về tình đồng chí tình đồng đội thắm thiết sâu nặng của những người lính cách mạng mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông thôn, đồng thời bài thơ làm hiện lên hình ảnh chân thực giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu cuộc kháng chiến. Bằng kiến thức đã học em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Văn chương nói chung , thơ ca nói riêng với sứ mệnh diệu kì của mình không bao giờ xa rời thực tế mà luôn vẽ nên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Đối với văn thơ thời kháng chiến, đó là hiện thực của cuộc đấu tranh bền bỉ, gian khổ. Thế nhưng, trong cuộc chiến tranh dữ dội ấy vẫn có nhưng gam màu lãng mạn hiện lên. Đến với bài thơ ” Đồng chí”, ngoài hiện thực dữ dội, đó còn là vẻ đẹp của tình đồng chí thiêng liêng . Nhận xét bài thơ, có ý kiến cho rằng” bài thơ nói về tình đồng chí tình đồng đội thắm thiết sâu nặng của những người lính cách mạng mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông thôn. Đồng thời bài thơ làm hiện lên hình ảnh chân thực giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu cuộc kháng chiến”

Đó là ý kiếm hoàn toàn xác đáng, đã khẳng định và nêu bật lên nội dung tư tưởng của toàn bộ bài thơ. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Bài thơ sáng tác mùa xuân năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời cũng được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946-1954, nó đã làm sáng lên cho một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Trước hết, bài thơ đã cho ta thấy được nguồn gốc xuất thân của những người lính, ” phần lớn họ đều xuất thân từ nông thôn”. Điều đó được thê hiện qua câu thơ:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau thành một cặp, lời thơ giản dị, dân giã như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nước mặn, đồng chua gợi liên tưởng đến những vùng đất cằn cỗi, cày cấy khó khăn. Nó gợi ta liên tưởng đến những vùng quê nghèo khó, vất vả. Như vậy, những người lính đều xuất thân từ những người nông dân chân lấm tay bùn, ra đi từ những miền quê nghèo đói.

Thế nhưng, họ đã gặp nhau nơi đây, nơi chiến trận. Họ là hiện thân tiêu biểu cho hình ảnh chân thực giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu cuộc kháng chiến. Trước hết ở học ngời sáng lên tinh thần đông chí, đồng đội sâu sắc. Cơ sở hình thành tình đồng chí dựa trên những điểm tương đồng sâu sắc.

Đó là chung cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng. Hơn thế, đó là là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc. Họ cùng chiến đấu bên nhau cùng chung mục đích lí tưởng đánh giặc cứu nước: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Từ đó, 2 tiếng “Đồng chí” cát lên thật thân thương. Câu thơ hai tiếng vang lên là sự lí giải mà cũng là sự phát hiện của nhà thơ về cội nguồn hình thành nên tình bạn tri kỉ, tình đồng chí, đồng đội giữa những anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tình đồng chí ấy còn có những biểu hiện hết sức sâu sắc. Họ chia sẻ với nhau nỗi nhớ:. Đồng chí đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Những người lính hiểu lòng nhau, thông cảm sâu sắc với nhau, họ cùng tâm tư, cùng nỗi nhớ: nhớ gốc đa, bến nước, sân đình, người thân yêu…

Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính – “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Hình ảnh chân thực từ cuộc sống bình dị, lời thơ mộc mạc dân giã, câu thơ sóng đôi, đối ứng nhau. Họ cùng chia sẻ gian lao, thiếu thốn, bệnh tật của cuộc đời quân ngũ. Bởi lẽ tình đồng chí đem lại cho họ tinh thần lạc quan vui vẻ tình thương nhau chân thành sâu sắc: Áo anh rách vai

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bjan trước khi nói về mình, chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình.

Khắc sâu vào tâm trí người đọc còn là hình ảnh những anh bộ đội với tinh thần lạc quan, tâm hồn lãng mạn:

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên: Trong cảnh “rừng hoang sương muối” – rừng mùa đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời, nhưng những người lính vẫn đứng cạnh bên nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới. Hình ảnh người lính, khẩu súng, vầng trăng gắn kết hòa quyện tạo nên chất lãng mạn trong cảnhthiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Đây là bức tranh thiên nhiên đẹp và tình người nồng ấm khiến cho người lính quên đi cái lạnh, rét say mê ngắm vẻ đẹp của rừng đêm dưới ánh trăng. H/ả rừng hoang sương muối diễn tả sự gian khổ của đời lính. Hình ảnh đầu súng trăng treo diễn tả nhiệm vụ chiến đấu và tâm hồn lãng mạn của người lính. Nó gợi ra sự liên tưởng phong phú thực tại và mơ mộng, chiến sĩ và thi sĩ , gần và xa…

Như vậy, với những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô động và giàu sức biểu cảm, bài thơ đã khắc họa thành công tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.