Tiểu luận phân tích đặc điểm cấu trúc nhân cách của người quan lý

Or you want a quick look: Bài tiểu luận về nhân cách con người

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Tiểu luận về nhân cách con người
  • Bài tiểu luận về nhân cách con người
  • Tiểu luận sự hình thành và phát triển tâm lý của con người
  • Tiêu luận về sự hình thành và phát triển nhân cách
  • Bài viết về nhân cách con người
  • Tiểu luận về tính cách con người
  • Tiểu luận tâm lý học nhân cách
  • Tiểu luận tâm lý học đại cương

Tiểu luận phân tích đặc điểm cấu trúc nhân cách của người quan lý

Tiểu luận Tâm lý học đại cương: Nhân cách và sự phát triển nhân cách

Khi xem xét hay đánh giá một con người, chúng ta thường hay nói đến “nhân cách” của người đó. Nó như là tiền đề để ta nhìn nhận giá trị , bản chất một con người. Khi nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có cơ sở quyết định mối quan hệ với người đó. Vì vậy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách con người là rất quan trọng và luôn được quan tâm trong xã hội. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng nhân cách không phải ngay từ khi sinh ra đã có. Không ai nói đến nhân cách với một đứa trẻ mới sinh. Nhân cách là cấu tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, hoạt động xã hội, vui chơi… Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần dần các xung động bản năng nguyên thủy mà một lúc nào đó bị kiềm chế, chèn ép. Theo đó, nhân cách là đặc trưng xã hội, là “phẩm chất xã hội” của con người.

Mở đầu

Nội dung

Khái niệm chung

I. Nhân cách Sự phát triển nhân cách

Các yếu tố ảnh hưởng đến hình thành phát triển nhân cách:

Yếu tố di truyền. Yếu tố môi trường. Yếu tố giáo dục. Yếu tố hoạt động. 10 Yếu tố giao tiếp .12

II. Liên hệ thực tiễn

Kết luận

Khi xem xét hay đánh giá người, thường hay nói đến “nhân cách” người Nó tiền đề để ta nhìn nhận giá trị , chất người Khi nhận thức chất người ta có sở định mối quan hệ với người Vì hình thành, phát triển hồn thiện nhân cách người quan trọng quan tâm xã hội. Tuy nhiên biết nhân cách từ sinh có. Không nói đến nhân cách với đứa trẻ sinh. Nhân cách cấu tạo người tự hình thành nên phát triển trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, hoạt động xã hội, vui chơi… Nhân cách không có sẵn cách bộc lộ xung động nguyên thuỷ mà lúc bị kiềm chế, chèn ép Theo đó, nhân cách đặc trưng xã hội, “phẩm chất xã hội” người Tóm lại nhân cách hình thành phát triển nhiều yếu tố, nghiên cứu nhân cách nhân tố vấn đề then chốt cần phải nhắc đến Trong phạm vi tiểu luận này, em xin phân tích yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành phát triển nhân cách yếu tố di truyền, mơi trường hồn cảnh xã hội, nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động nhân tố giao tiếp

Nhân cách Nhân cách vấn đề trung tâm tâm lý học (TLH) Là tổ hợp đặc điểm, thuộc tính tâm lý cá nhân biểu sắc giá trị xã hội người Có nhiều định nghĩa khác nhân cách nhân cách thường xác định hệ thống quan hệ giới xung quanh với thân Trên sở ta rút định nghĩa khái quát nhân cách: Nhân cách tổ hợp thuộc tính tâm lí cá nhân biểu sắc giá trị xá hội người Trong “tổ hợp” có nghĩa thuộc tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn làm thành hệ thống, cấu trúc định Dùng “bản sắc” muốn nói chung xã hội trở thành riêng, khác biệt người không giống với tổ hợp khác người khác Chữ “giá trị xã hội” muốn nói thuộc tính thể việc làm, cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến người xã hội đánh giá Nhân cách bao gồm đặc điểm: tính ổn định, tính thống nhất, tính tích cực, tính giao tiếp Sự phát triển nhân cách - Sự phát triển thể chất thể tăng trưởng chiều cao, trọng lượng, bắp, hoàn thiện giác quan, phối hợp vận động - Sự phát triển mặt tâm lý thể biến đổi trình nhận thức, xúc cảm, ý chí, hình thành thuộc tính tâm lý nhân cách - Sự phát triển mặt xã hội thể thay đổi cách ứng xử với người xung quanh, tham gia tích cực vào đời sống xã hội

Nhân cách cấu tạo tâm lý hình thành phát triển trình sống, hoạt động giao tiếp người Như Lênin khẳng định : “Cùng với dòng sữa mẹ, con đường hấp thụ tâm lý, đạo đức xã hội mà thành viên” Nhà tâm lý học tiếng A.L.Leonchiep nhân cách cụ thể nhân cách người sinh thành phát triển theo đương từ bên chuyển vào nội tâm, từ quan hệ với giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hóa xã hội hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội mà gắn bó Trong q trình hình thành, nhân cách bị chi phối nhiều yếu tố: di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động, giao tiếp Yếu tố di truyền Khi nói tới yếu tố sinh học người, hiểu yếu tố hữu sinh, hữu cơ, mà mặt phát sinh, ln gắn bó với tổ tông động vật người, làm cho người hình thành hoạt động cá thể, hệ thống phục tùng quy luật sinh học, coi tồn tiền đề sinh học người Nói cách dễ hiểu, di truyền tái tạo trẻ em thuộc tính sinh học định, giống với cha mẹ, thông qua hệ thống gen VD: Cha mẹ tóc màu đen, mắt nâu họ tóc đen mắt nâu, hay 2, không thể có tóc vàng mắt xanh. Những yếu tố di truyền bao gồm: Cấu trúc giải phẫu thể, màu da, màu tóc, vóc dáng, thể trạng, tư chất hệ thần kinh…

Những yếu tố góp phần nảy sinh nhân cách, coi tiền đề tiền đề vật chất (mầm mống) phát triển tâm lý, nhân cách người. Bẩm sinh – di truyền đặc điểm giải phẫu sinh lí hệ thần kinh quan cảm giác, vận động. Đối với cá thể đời nhận số đặc điểm cấu tạo chức thể từ hệ trước theo đường di truyền có giác quan não. Bất chức tâm lí mang chất người nhân cách phát triển hoạt động thân điều kiện xã hội lồi người. Thực tế thể bình thường phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần Ngồi ra, tác động yếu tố di truyền giai đoạn phát triển lứa tuổi hoạt động cụ thể khác .Thực ra, cấp độ sinh học, phong phú, đa dạng nhân cách thể Khi sinh ra, người có gen riêng mà trùng với người khác Do vậy, người có khí chất, thiên hướng, khả tư duy… khác. Như vậy, Bẩm sinh – di truyền đóng vai trò đáng kể hình thành phát triển tâm lí nhân cách Chính tham gia vào tạo thành sở vật chất tượng tâm lí – đặc điểm giải phẫu sinh lí thể, có hệ thần kinh.

Qua ta khẳng định vai trò tiền đề vật chất yếu tố di truyền với hình thành phát triển phát triển nhân cách. Tuy nhiên cần ý, yếu tố di truyền bẩm sinh không định nhân cách mà tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho trình hình thành nhân cách Nên cần ý mức vai trò di truyền, không nên coi nhẹ đánh giá cao vai trò nhân tố Ví dụ: Tại lại có từ “con nhà nòi”, ví dụ gia đình nhiều người giỏi âm nhạc đứa trẻ có thiên hướng âm nhạc? Đó q trình hình thành nhân cách theo bẩm sinh di truyền Nếu gia đình, cha mẹ người tài giỏi yếu tố giúp noi theo. Ví dụ:  Bé Nhật Minh – Quán quân The Voice Kids Một em học sinh kế thừa yếu tố di truyền mẹ đàn giỏi tiền đề sở, khơng tạo điều kiện cho em học đàn để phát huy khiếu, thân em không tích cực học tập không trở thành người đàn giỏi Có số quan điểm sai nhìn nhận vai trò di truyền với phát triển nhân cách:

VD: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính  Nhân cách tiến trình có tính chất tiền định. VD: Con nhà nông không giống lông giống cánh  Các quan điểm cực đoan phiến diện tuyệt đối hố vai trò yếu tố di truyền.

VD: Con vua lại làm vua  Quan điểm phân biệt chủng tộc VD: Quan điểm “trẻ em tờ giấy trắng mà người dạy dỗ vẽ được”  Quan điểm xem nhẹ, hạ thấp vai trò yếu tố di truyền Yếu tố môi trường Môi trường toàn yếu tố tự nhiên xã hội xung quanh cần thiết cho sinh hoạt phát triển người Môi trường tự nhiên: Gồm khí hậu, đất, nước, sinh thái phục vụ cho học tập, lao động, rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trí Mơi trường xã hội: Gồm điều kiện kinh tế, trị, văn hóa…

a) Mơi trường tự nhiên Những điều kiện tự nhiên quy định đặc điểm phương thức hoạt động người tự nhiên số nét riêng phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua quy định giá trị vật chất tinh thần mức độ định. Hay nói tâm lý dân tộc mang dấu ấn hồn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian phương thức sống Ngay nhiều phong tục tập quán suy cho có nguồn gốc từ điều kiện hồn cảnh sống tự nhiên Nhân cách thành viên xã hội chịu ảnh hưởng điều kiện tự nhiên thông qua giá trị vật chất tinh thần, qua phong tục tập quán dân tộc, địa phương, nghề nghiệp - vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên qua phương thức sống thân Ví dụ: người Việt Nam, sinh đất nước trải qua chiến tranh gian khổ để giành độc lập, đất nước lên từ kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nên người Việt Nam người kiên cường, cần cù, chịu khó điều ảnh hưởng đến nhân cách người Việt Nam Tuy nhiên hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng định phát triển tâm lý nhân cách. Những hồn cảnh tự nhiên hồn tồn điều chỉnh, khắc phục

b) Môi trường xã hội Môi trường xã hội toàn mối quan hệ xã hội mà người sống tiếp xúc. Nó có ảnh hưởng đến phát triển tâm lý nhân cách. Vì không có tiếp xúc với người cá thể lớn lên phát triển trạng thái động vật, không thể trở thành người, nhân cách Có nghĩa đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để chuẩn bị bước vào sống lao động văn hóa thời đại nói nhân cách sản phẩm xã hội Quan hệ sản xuất quy định nội dung nhiều nét tâm lý nhân cách Ngoài tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ trị pháp luật Vị trí giai cấp cá nhân kích thích tính tích cực mức độ mức độ khác vai trò xã hội Trong tất mối quan hệ xã hội nêu trên, nhân cách không khách thể mà chủ thể. Cá nhân tồn có ý thức, lựa chọn phương thức sống lựa chọn phản ứng khác trước tác động hoàn cảnh xã hội.

Dư luận hình thành thầm lặng có ý thức Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực đời sống bắt nguồn từ kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát triển tâm trạng xã hội có ảnh hưởng trở lại tâm trạng. Ảnh hưởng tích cực tiêu cực mơi trường nhân cách: Một môi trường xã hội lành mạnh, dân chủ, quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá tinh thần xã hội có phát triển hài hồ… tạo điều kiện cho tính tích cực nhân cách phát huy. Ngược lại, tính tích cực xã hội nhân cách bị thui chột đi, môi trường xã hội không tạo điều kiện cho bộc lộ Trong chừng mực đó, điều khơng làm cho nhân cách bị nghèo nàn, mà dẫn tới phá vỡ nhân cách Ví dụ: Trường hợp Kamala chó sói ni từ nhỏ Khi đưa khỏi rừng, 12 tuổi. Bình thường, ngủ xó nhà, đêm đến tỉnh táo đơi sủa lên chó rừng Cơ lại hai chân, bị đuổi chạy bốn chi nhanh Ảnh minh họa (Ảnh: Julia Fullerton-Batten).

Người ta dạy nói cho Kamala bốn năm, nói hai từ. Cơ kháng thể thành người chết tuổi 18 Người ta biết 30 trường hợp Hoàn cảnh mơi trường nhỏ có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến hình thành phát triển nhân cách cá nhân Trong mơi trường xã hội có ý nghĩa quan trọng hình thành phát triển nhân cách Yếu tố giáo dục Theo quan điểm tâm lý học giáo dục học đại giáo dục giữ vai trò chủ đạo phát triển nhân cách Giáo dục hoạt động chun mơn xã hội nhằm hình thành phát triển nhân cách người theo yêu cầu xã hội giai đoạn lịch sử định Trong tâm lý học, giáo dục thường hiểu q trình tác động có ý thức, có mục đích có kế hoạch mặt tư tưởng, đạo đức hành vi tập thể trẻ em học sinh, trong gia đình quan giáo dục ngồi nhà trường Nhưng thực giáo dục có nghĩa rộng hơn, giáo dục bao gồm việc dạy học với hệ thống tác động sư phạm khá, trực tiếp gián tiếp lớ lớp, trường ngồi trường, gia đình ngồi xã hội vai trò chủ đạo giáo dục hình thành phát triển nhân cách hệ trẻ thể điều sau đây: Giáo dục vạch chiều hướng cho hình thành phát triển nhân cách học sinh dẫn dắt hình thành phát triển nhân cách học sinh theo chiều hướng.

READ  200 Bài Tiểu Luận Kinh Tế Chính Trị Mác-Lênin Hay Nhất | Luận Văn 2S

Giáo dục mang lại mà yếu tố bẩm sinh - di truyền hay môi trường tự nhiên đem lại. Chẳng hạn, nếu đứa trẻ sinh không bị khuyết tật theo tăng trưởng phát triển thể, đến giai đoạn định đứa trẻ biết nói Nhưng muốn biết đọc. Giáo dục bù đắp thiếu hụt bệnh tật đem lại cho người Ví dụ: giáo dục trẻ em bị khuyết tật phục hồi chức mất, hoặc phát triển tài trí tuệ cách bình thường Giáo dục uốn nắn phẩm chất tâm lý xấu tác động tự phát môi trường gây nên làm cho phát triển theo chiều hướng mong muốn xã hội Chẳng hạn giáo dục trẻ em hư cải tạo lao động người phạm pháp. Giáo dục trước thực , tác động tự phát xã hội ảnh hưởng tới cá nhân mức đọ có Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục xây dựng người xã hội chủ nghĩa Những công trình nghiên cứu tâm lý học giáo dục học đại chứng minh hát triển tâm lý trẻ em diễn cách tốt đẹp điều kiện dạy học giáo dục.

Tuy nhiên, giáo dục vạch đường hướng cho hình thành phát triển tâm lý học sinh thúc đẩy trình hình thành phát triển theo hướng Còn cá nhân học sinh có phát triển theo hướng hay không, phát triển đến mức độ điều giáo dục không trực tiếp định. Vì vậy, không tuyệt đối hố vai trò giáo dục Như vậy, giáo dục mặt cung cấp cho người kỹ kỹ xảo, mặt khác hình thành nhân cách họ phẩm chất tâm lý cần thiết theo yêu cầu phát triển xã hội Cần tiến hành giáo dục mối quan hệ hữu với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệ GT, HĐ mối quan hệ xã hội, nhóm tập thể; biến trình giáo dục thành trình tự giáo dục Giáo dục giữ vai trò định trực tiếp hình thành tâm lý phát triển nhân cách Gia đình, nhà trường xã hội muốn đạt tới hoàn thiện nhân cách trẻ cần quan tâm lớn hoạt động giáo dục Yếu tố hoạt động cá nhân Hoạt động tác động qua lại có định hướng người với giới xung quanh, hướng tới biến đổi nhằm thỏa mãn nhu cầu Con đường tác động có mục đích, tự giác xã hội giáo dục đến hệ trẻ không có hiêu nêu thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hương ứng tác động đó, không trực tiếp tham gia vào hoạt động nhằm phát triển 10 tâm lý, hình thành nhân cách Bởi vạy, hoạt động chủ đạo đóng vai trò chủ yếu hình thành phát triển nhân cách so với loại hoạt động khác cá nhân Điều hoàn toàn phù hợp với quy luật tự thân vận động, động lực bên phát triển nói chung

Hoạt động cá nhân nhằm để thỏa mãn nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội, vật chất hay tinh thần đời sống riêng hay đời sống xã hội biểu phong phú tính tích cực nhân cách Hoạt động phương thức tồn người, là nhân tố định trực tiếp hình thành phát triển nhân cách Hoạt động người hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, thực thao tác định, với công cụ định. Thông qua hai q trình đối tượng hóa chủ thể hóa hoạt động nhân cách bộc lộ hình thành Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử hoạt động thân để hình thành nhân cách Muốn hình thành nhân cách, người phải tham gia vào dạng hoạt động khác nhau, đặc biệt ý tới hoạt đồng chủ đạo Phải lựa chọn, tổ chức hướng dẫn hoạt động đảm bảo tính giáo dục hiệu việc hình thành phát triển nhân cách Việc đánh giá hoạt động quan trọng việc hình thành nhân cách Việc đánh giá chuyển dần thành tự đánh giá, giúp người thấm nhuần chuẩn mực, biểu giá trị xã hội, trở thành lương tâm người Ví dụ: Cách dễ để kết hợp việc học chơi với nên thông qua hoạt động hàng ngày trẻ em Trẻ học nhiều học thông qua việc phân loại quần áo phân biệt kích cỡ 11 quần áo lớn nhỏ, màu sắc quần áo, kiểu quần áo Ngược lại trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước hành vi, cách xử người lớn, không học tập trẻ phát triển đầy đủ phẩm chất lực nhân cách.

Vì vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ chức lôi kéo trẻ tham gia tích cực vào hoạt động để giúp hình thành phát triển nhân cách trẻ Yếu tố giao tiếp. Nhà tâm lý học Xô Viết B.Ph.Lomov cho “khi nghiên cứu lối sống cá nhân cụ thể, giới hạn phân tích xem làm nào, mà phải nghiên cứu xem giao tiếp với nào” Vì với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có vai trò quan trọng việc hình thành phát triển nhân cách Giao tiếp điều kiện tồn cá nhân xã hội loài người, nhu cầu xuất sớm người .Nhu cầu giao tiếp nhu cầu xã hội bản, xuất sớm người. Thực tế chứng minh trường hợp động vật nuôi tính người , nhân cách lại điểm tâm lý, hành vi vật Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu giao tiếp hạn chế, nghèo nàn dẫn đến hậu nặng nề dễ mắc bệnh “ đói giao lưu nằm viện lâu ngày” (hospitalism) Nhờ giao tiếp, người gia nhập vào quan hệ xã hội, lĩnh hội văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “ tổng hòa quan hệ xã hội” làm thành chất người, đồng thời thơng qua giao tiếp người đóng góp tài lực vào kho tàng chung nhân loại, xã hội Trong giao tiếp người không nhận thức người khác, nhận thức quan hệ xã hội mà nhận thức thân mình, tự đối chiếu so sánh với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá thân nhân cách để hình thành thái độ giá trị cảm 12 xúc định thân. Hay qua giao tiếp người hình thành lực tự ý thức Ví dụ: Khi giao tiếp ta biết cách thức giao tiếp người. Từ hình thành khả giao tiếp riêng cho thân Khi giao tiếp với nhiều đối tượng, với nhiều người ta rút nhiều kinh nghiệm cho việc giao tiếp. Vai trò giao tiếp nhóm tập thể: Nhóm: tập hợp người thống lại theo mục đích chung Tập thể: nhóm người, phận xã hội thống theo mục đích chung, phục tùng mục đích xã hội. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc giáo dục tập thể tập thể có ý nghĩa quan trọng việc hình thành phát triển nhân cách ====> Tóm lại: Cả yếu tố tác động đến hình thành phát triển nhân cách, có vai trò không giống Yếu tố di truyền giữ vai trò làm tiền đề tự nhiên, sở vật chất .Yếu tố hồn cảnh sống có vai trò định. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Còn yếu tố hoạt động giao tiếp cá nhân có vai trò định trực tiếp hình thành phát triển nhân cách

Trong thực tế, yếu tố không tác động cách riêng rẽ mà chúng tác động vào hình thành phát triển nhân cách. Hoàn thiện nhân cách vừa nhu cầu cá nhân, vừa yêu cầu khách quan xã hội Nhận thấy tầm quan trọng tâm lý nhân cách nên ngày vấn đề giáo dục, bồi dưỡng tâm lý 13 nhân cách gia đình, nhà trường xã hội quan tâm, trọng, trẻ em từ nhỏ bắt đầu hình thành nhân cách .Liên hệ với đất nước ta, đất nước ta trình đổi kinh tế, phát triển công nghiệp hố đại hoá. Trong năm qua, đạt thành tựu đáng kể lĩnh vực đời sống xã hội. Điều tác động đến thành viên xã hội, làm phong phú đa dạng thêm đồng thời phức tạp thêm lối sống người, đặc biệt ảnh hưởng đến hình thành phát triển nhân cách lớp trẻ .Thực tiễn cho thấy năm gần đây, thang giá trị xã hội có thay đổi nhanh chóng. Chính thay đổi số giá trị dẫn đến thay đổi đặc điểm nhân cách tuổi trẻ Việt Nam thời kỳ Định hướng giá trị yếu tố quan trọng cấu trúc bên nhân cách. Chúng ta trình vận động chuyển đổi lĩnh vực. Vì vậy, không thể không có chuyển đổi thang giá trị, biểu định hướng giá trị việc kế thừa trì giá trị truyền thống hình thành giá trị chuẩn mực mới, tiếp cận thời đại. Những giá trị truyền thống gia đình, tình nghĩa, đề cao tâm, chữ tín đạo hiếu, lễ nghĩa trì nhằm hạn chế, khắc phục tính ích kỷ, thờ chí lạnh lùng số người tác động chế thị trường Tính cộng đồng quan tâm bên cạnh số giá trị phẩm chất cá nhân ngày đề cao như: Học vấn, sức khoẻ, sáng tạo, tự lập, tự trọng, tinh thần khám phá, chí tiến thủ,… Mục tiêu, yêu cầu mơ hình nhân cách tuổi trẻ Việt Nam cần phải có kết hợp giá trị chuẩn mực truyền thống mơ hình phát triển người Việt Nam XHCN 14

Như có năm nhân tố ảnh hưởng tới hình thành phát triển nhân cách di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục, hoạt động yếu tố giao tiếp Mỗi nhân tố có hướng tác động khác tới hình thành phát triển nhân cách người. Trong nhân tố đó, hoạt động tích cực cá nhân nhân tố định trực tiếp đến hình thành phát triển nhân cách. Công lao to lớn C.Mac vạch cho sáng tỏ mối quan hệ biện chứng biến đổi môi trường xung quanh người, biến đổi chất người vai trò tích cực, động người. Theo ông, môi trường, giáo dục tác động bên ngồi vào hình thành phẩm chất người mà q trình tự biến đổi người C.Mac khẳng định: ”Hoàn cảnh sáng tạo người chừng mực người sáng tạo hồn cảnh” . Có thể thấy hình thành phát triển nhân cách và quan tâm ý xã hội Mà nhân cách lại bị ảnh hưởng chi phối nhiều yếu 15 tố Nên việc phân tích, tìm hiểu vai trò yếu tố tác động đến hình thành phát triển nhân cách có ý nghĩa vơ lớn không phương diện lý luận, nghiên cứu tâm lý học mà thực tiễn 16 ... cấu tạo tâm lý hình thành phát triển trình sống, hoạt động giao tiếp người Như Lênin khẳng định : “Cùng với dòng sữa mẹ, con đường hấp thụ tâm lý, đạo đức xã hội mà thành viên” Nhà tâm lý học tiếng... nghiên cứu tâm lý học giáo dục học đại chứng minh hát triển tâm lý trẻ em diễn cách tốt đẹp điều kiện dạy học giáo dục. Tuy nhiên, giáo dục vạch đường hướng cho hình thành phát triển tâm lý học sinh... giao tiếp. NỘI DUNG I KHÁI NIỆM CHUNG Nhân cách Nhân cách vấn đề trung tâm tâm lý học (TLH) Là tổ hợp đặc điểm, thuộc tính tâm lý cá nhân biểu sắc giá trị xã hội người Có nhiều định nghĩa khác nhân

Sự hiểu biết về nhân cách con người là tiền đề để điều khiển hoạt động của họ một cách có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang thâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội và điều kiện “Nhân tố con người” trở nên cấp bách như Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã xác định. Do đó, việc nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển nhân cách, đặc biệt là vai trò của các yếu tố thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển đó là rất cần thiết. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Vai trò của các yếu tố đối với sự  trình hình thành và phát triển nhân cách. Liên hệ thực tế” cho bài tập lần này.

Bài làm của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn.                      

Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ.

Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Mỗi cá nhân tiếp thu những giá trị phổ biến của văn hóa xã hội, từ đó, thông qua sự lọc bỏ, tự tiếp nhận của bản thân để hình thành các giá trị định hướng của nhân cách. Các giá trị như lý tưởng, niềm tin, quan hệ lợi ích, nhận thức và hành động được mỗi cá nhân lựa chọn để xác lập hành vi cụ thể, hình thành nhân cách trong quan hệ xã hội.

Trong cuốn Khoa học chẩn đoán tâm lý, PGS. TS Trần Trọng Thuỷ đã cho biết ngay từ năm 1949, G.Allpon đã dẫn ra 50 định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ngày nay, đã có tới hàng trăm định nghĩa. Nhưng nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh thể hiện ở niềm tin, thái độ cũng như thế giới quan của họ đối với người khác, chủ yếu là trong hoạt động và giao tiếp. Quan hệ của con người đối với bản thân mình thể hiện ở chỗ: Nhân cách đã được hình thành và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân lớn lên và đang được biến đổi, bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình. Chính trong sự hình thành và phát triển nhân cách mà các đặc điểm của con người với tư cách là cá tính được biến đổi và trở thành những đặc điểm mang tính người đích thực, tính xã hội – đạo đức. 

Từ đó có thể định nghĩa về nhân cách như sau:

“ Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy”( Nguyễn Quan Uẩn, “Tâm lí học đại cương”, nxb. Đại học Quốc gia).

Hình thành nhân cách được hiểu là một quá trình khách quan mang tính quy luật, trong đó một người thể hiện mình vừa trong tư cách là đối tượng của sự tác động vừa trong tư cách là chủ thể của hoạt động và giao tiếp. Giai đoạn hình thành nhân cách được tính ngay từ khi chủ thể nhân cách còn nằm trong bào thai, giữ vai tò đặc biệt quan trọng – vai trò mang tính tiền định nhân cách.

Phát triển nhân cách là quá trình hình thành nhân cách như là một phẩm chất xã hội của cá nhân, là kết quả của sự xã hội hóa nhân cách và của giáo dục. Giai đoạn phát triển nhân cách có thể được xác định trong khoảng thời gian trước tuổi trưởng thành của chủ thể nhân cách. 

Từ sự xác định trên, chúng ta có thể đưa ra 5 nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân cách, đó là: nhân tố di truyền, nhân tố hoàn cảnh sống     (gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội), nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động, nhân tố giao tiếp. 

Đầu tiên cần phải khẳng định, di truyền đóng vai trò là tiền đề vật chất đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trước sự phát triển của khoa học, đặc biệt là sinh vật học và khoa học xã hội nhân văn, chủ nghĩa sinh học xã hội đã ra đời như một trào lưu khoa học liên ngành mới ở Tây Âu. Theo họ, "sự phát triển của bộ não, sự chuyên trách của bộ não, tốc độ và tính khuynh hướng của quá trình giáo dục con người được hình thành trên trái đất, chủ yếu bằng con đường di truyền" hay "lý tính của con người có thể được hiểu đúng đắn, rõ ràng nhất từ quan điểm về quá trình phát triển do các yếu tố di truyền quyết định”. 

Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Tổ chức cơ thể của con người, như các giác quan, hệ thần kinh trung ương... là những tiền đề sinh học, sinh lý học, tâm sinh học được xem như cơ sở vật chất và có ảnh hưởng tới sự phát triển con người. 

Thực tế đã chứng minh rằng, những khiếm khuyết về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người, tới thế giới quan, định hướng giá trị... của họ, hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài năng như tai nghe nhạc của Moza, mắt hội họa của Raphaen... chính là do các yếu tố sinh học chi phối. 

Một ví dụ khác là, ngày nay, người ta thường nhắc tới nhịp điệu sinh học (đồng hồ sinh học) như một cơ chế có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của con người, hay nhiều kết quả nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, khi có một bên nào đó hoạt động hoặc ngừng hoạt động thì con người có sự thay đổi nhất định.

Như vậy, bẩm sinh – di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triên nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý – những đặc điểm giải phẫu và sinh lý cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. 

Ta có thể liên hệ thực tế để thấy rõ vai trò của yếu tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển nhân cách như sau: 

Ví dụ như: Những trẻ em bị khiếm khuyết hay dị tật thường sống khép kín, ngại tiếp xúc và dễ bị xúc động hơn những trẻ có thể chất phát triển bình thường. 

Hay ngày nay trong xã hội có căn bệnh “trọng hình thức”, những cô gái có ngoại hình xinh đẹp thường tự tin và gặp nhiều thành công, may mắn hơn trong cuộc sống cũng như trong công việc.

Hans Eysenck (1919 – 1997, nhà tâm lí học người Anh) đã tiến hành nghiên cứu nhằm so sánh trẻ sinh đôi cùng trứng và khác trứng. Nghiên cứu cho thấy những trẻ sinh đôi cùng trứng có nhân cách giống nhau nhiều hơn trẻ sinh đôi khác trứng, thậm chí cả khi trẻ sinh đôi cùng trứng được nuôi dưỡng của bố mẹ khác và trong môi trường khác biệt trong suốt giai đoạn thơ ấu. Nghiên cứu trẻ em được nhận làm con nuôi cho thấy các em có nhân cách rất giống nhau và giống cả cha mẹ đã sinh ra chúng hơn là cha mẹ nuôi, mặc dù các em không tiếp xúc với cha mẹ đẻ của mình. Đây là một ví dụ cho ý tưởng của Eysenck rằng nhân cách phát triển bị ảnh hưởng nhiều của yếu tố di truyền.

Hay một ví dụ khác như căn bệnh rối loạn nhân cách, nhiều nghiên cứu đã đưa tới khẳng định gen di truyền là nguyên nhân quan trọng dẫn tới căn bệnh về nhân cách này. Điều đó càng khẳng định những khiếm khuyết về gen có ảnh hưởng không nhỏ tới hình thành và phát triển nhân cách.

Hoàn cảnh sống của chủ thể thì bao gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. 

Hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định trong sự phát triển tâm lí nhân cách. Hoàn cảnh tự nhiên chính là những điều kiện tự nhiên nơi chủ thể sinh sống. Mỗi cá nhân lại sống trong một lãnh thổ nhất định, có cái độc đáo của hoàn cảnh địa lý: Ruộng đồng và khoáng sản, núi và sông, trời và biển, mưa và gió, hoa cỏ và âm thanh. Những điều kiện ấy quy định đặc điểm của các dạng, các ngành sản xuất, đặc tính của nghề nghiệp (tức những phương thức hoạt động của con người trong tự nhiên) và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Qua đó, quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Cho nên có thể nói rằng, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống. Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán và các nét tâm lí bản địa đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Có thể nói vậy là bởi nhân cách như là một thành viên xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của nghề nghiệp. 

Ví dụ: Ở nhiều vùng quê Việt Nam ngày nay vẫn còn truyền thống làm lễ cầu mua, cầu mưa hay mừng gặt … phong tục này bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên của nước ta ( thích hợp trồng lúa nước, nhiệt đới có mưa theo mùa).

Ngược lại, hoàn cảnh xã hội lại có vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Có thể nói vậy là bởi nếu không có sự tiếp xúc với con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không thể trở thành một con người, một nhân cách. Nhân cách đó là một sản phẩm của xã hội. Như thế có nghĩa là đứa trẻ muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị trước vào cuộc sống và lao động trong văn hóa của thời đại. 

Yếu tố xã hội thì bao gồm những tác động từ phía môi trường xã hội (môi trường vĩ mô) và những hoạt động của chủ thể trong môi trường đó ở cấp độ vi mô. 

Môi trường vĩ mô được hiểu là toàn bộ những sự kiện và hiện tượng của đời sống xã hội diễn ra trong phạm vi rộng về không gian và kéo dài về thời gian. Môi trường vĩ mô vượt quá giới hạn của địa phương nơi trẻ sinh sống (phường, xã, thành phố, tỉnh, quốc gia..). Về thời gian, môi trường vĩ mô bao gồm cả quá khứ (di sản văn hóa vật thể và phi vật thể …), hiện tại ( nền văn hóa vật chất và tinh thần) và tương lai (viễn cảnh về mô hình phát triển của đất nước). Môi trường vĩ mô là những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít tùy thuộc mối quan hệ của chủ thể với môi trường đó (quan tâm, thích thú, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng …). 

Ví dụ: Một đứa trẻ sống ở Mỹ - đất nước phát triển, đa sắc tộc, đa văn hóa sẽ khác một đứa trẻ sống ở Việt Nam – đất nước đang phát triển với nền văn hóa phương Đông đậm nét. Đứa trẻ sống ở Mỹ sẽ có lối sống phóng khoáng hơn, tự do hơn và cũng có thể năng động hơn, đứa trẻ sống ở Việt Nam sẽ có lối sống khuôn phép, kín đáo hơn.  

Môi trường vi mô được giới hạn trong phạm vi hẹp, gần gũi với cuộc sống thường nhật của trẻ ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, Đội thiếu niên tiền phong, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, câu lạc bộ …Ở gia đình, trẻ không chi học những điều cha mẹ chỉ bảo, uốn nắn mà bầu không khí tâm lí – đạo đức cùng với tình cảm gắn bó ruột thịt là những tác động có sức cảm hóa mạnh mẽ. Nhà trường, với chức năng và nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ, đã có vai trò chủ đạo, định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh thông qua các hình thức và nội dung của các loại hình hoạt động dạy học và giáo dục như học tập văn hóa, lao động hướng nghiệp, văn nghệ, thể dục thể thao … Ngoài học tập văn hóa, hầu hết những hoạt đồng trên được các tổ chức Đội, Đoàn cùng với nhà trường tổ chức trong thời gian ngoài giờ lên lớp. Điều đó giúp học sinh có cơ hội mở rộng phạm vi giao tiếp và rèn luyện tính năng động, tháo vát, hợp tác, …

Nếu không được tiếp xúc với môi trường xã hội, trẻ sẽ không có điều kiện phát triển bình thường. Chẳng hạn, bác sỹ Sing, người Ấn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi khá nhanh. Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ. Cô không thể thành người và chết ở tuổi 18. Đến nay, người ta đã biết được trên 30 trường hợp tương tự. 

Những sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét của C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Như vậy, có thể thấy rằng, đứa trẻ ra đời mới chỉ như một con người "dự bị". Nó không thể trở thành con người nếu bị cô lập, tách khỏi đời sống xã hội, nó cần phải học để trở thành người.

Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.

Với nghĩa rộng, giáo dục bao gồm giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội và giáo dục gia đình, trong đó giáo dục nhà trường là quá trình tác động một cách chuyên biệt, không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học cơ bản, hiện đại, mà thông qua việc dạy học còn hình thành ở học sinh những năng lực và phẩm chất trí tuệ, hứng thú. Mặt khác, việc giáo dục thông qua các hình thức sinh hoạt tập thể và hoạt động xã hội công ích là những tác động đặc thù ảnh hưởng đến sự phát triển những phẩm chất đạo đức của nhân cách. 

Giáo dục xã hội thông qua sách báo, phim ảnh, truyền hình, giao tiếp xã hội … với những nội dung lành mạnh là những tác động tích cực hỗ trợ cho giáo dục nhà trường. Giáo dục gia đình tuy không có chương trình, kế hoạch và nội dung xác định như giáo dục nhà trường; song với việc tổ chức cuộc sống có nền nếp, trật tự, gia phong, với việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên của gia đình thuộc các thế hệ,… là những tác động góp phần tạo nên nền tảng ban đầu của sự hình thành nhân cách.

Như vậy, giáo dục giữa vai trò chủ đạo quyết định xu hướng hình thành và phát triển nhân cách. Có thể nói vậy là bởi:

+ Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.

+ Giáo dục có thể đem lại cái mà yếu tố bẩn sinh – di truyền hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. 

Ví dụ: Trẻ con không cần yếu tố giáo dục, đến 2 tuổi sẽ biết đi, 3 tuổi sẽ biết nói ( đó là những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền đem lại) nhưng trẻ không thể tự biết đọc, biết viết nếu không được dạy ( là cái mà chi có yếu tố giáo dục có thể đem lại).

+ Trong những trường hợp đặc biệt, giáo dục có thể phát triển tối đa mặt mạnh của các yếu tố khác.

Ví dụ: Những trẻ em, học sinh có tư chất (sự kết hợp những đặc điểm giải phẫu và những điểm chức năng tâm – sinh lí) trong một lĩnh vực với tác động giáo dục có thể phát triển năng khiếu về lĩnh vực đó (năng khiếu toán, văn, âm nhạc,… )

+ Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bẩm sinh đem lại. 

Ví dụ, đối với những trẻ bị khuyết tật, có thể sử dụng phương pháp giáo dục chuyên biệt như sử dụng chữ nổi đối với trẻ khiếm thị, ngôn ngữ hình thể với trẻ bị câm điếc bẩm sinh.

+ Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. 

Ví dụ: đối với những trẻ suy thoái nhân cách ( nhiễm thói hư tật xấu, vi phạm pháp luật) có thể uốn nắn, điều chỉnh sự phát triển nhân cách lệch lạc so với các chuẩn mực xã hội của các em bằng các biện pháp giáo dục đặc biệt.

+ Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó mà thôi. 

Ví dụ, mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đây chính là tính chất tiên tiến của giáo dục.

Như vậy, giáo dục có vai trò cực kì to lớn, nhưng giáo dục không vạn năng và học sinh không chịu sự tác động của giáo dục một cách thụ động. Giáo dục không thể “đem cho” và học sinh không chỉ “đón nhận”. Nhân cách học sinh không phải chỉ là sản phẩm trực tiếp của giáo dục. Vì vậy, giáo dục chỉ có thể phát huy tối đa vai trò chủ đạo trong điều kiện tổ chức, hướng dẫn học sin tham gia hoạt động và giao tiếp với tư cách chủ thể. Hoạt động tích cực của chủ thể là yếu tố quyết định trực tiếp của sự hình thành nhân cách.

Giao tiếp là hình thức hoạt động đặc trưng cho mối quan hệ giữa con người với con người, thông qua đó thực hiện sự tiếp xúc tâm lí và được biểu hiện ở 3 quá trình: trao đổi thông tin, hiểu biết lẫn nhau và tác động lẫn nhau. 

Ví dụ như giáo viên lên lớp giảng bài cũng coi là hoạt động giao tiếp, do nó có sự trao đổi thông tin.

Giao tiếp đóng vai trò cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Bởi vì:

+ Nó ko thể có tâm lí con bên ngoài mối quan hệ giao tiếp, con người không thể tồn tại bên ngoài giao tiếp. Thông qua giao tiếp để tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội mà các thế hệ trước để lại để trở thành thành viên của xã hội. 

Ví dụ như: Con người không thể tự mình chứng minh các định lí, công thức toán học mà phải thông qua giao tiếp dưới hình thức học tập, trao đổi các nghiên cứu của những nhà toàn học thời trước để lĩnh hội kết quả nghiên cứu của họ.

+ Giao tiếp thúc đẩy sự hình thành ở con người những hứng thú nhận thức khác nhau, điều này có thể làm đòn bẩy để dẫn đến sự tự đào tạo. Ví dụ như: Thông qua việc tham gia các hội thảo về  môi trường, học sinh A có thể thấy hứng thú với vấn đề bảo vệ môi trường, điều đó thúc đẩy em tự nghiên cứu tìm tòi và từ đó dẫn đến sự tự đào tạo.

+ Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức người khác mà còn nhận thức chính bản thân mình, bất kì người nào cũng đối chiếu mình với cái mà họ nhìn thấy ở người khác, so sánh cái mà họ làm được với cái mà người xung quanh làm. Do đó, qua giao tiếp, con người tự đánh giá bản thân mình như một nhân cách. 

Ví dụ: Các em học sinh cùng trao đổi cách giải một bài toán khó. Qua việc tranh luận đó, các em có thể tự thấy cách làm của mình là đúng hay sai, có nhanh gọn hay không.

+ Nhu cầu giao tiếp là một nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. Việc không thỏa mãn nhu cầu này ở con người ở bất cứ lứa tuổi nào đều dẫn đến những rung động tiêu cực. 

Ví dụ như: Những trẻ em không được đi nhà trẻ, các em không được tập giao tiếp làm quen với thầy cô và bạn bè nên khi đi học lớp 1 sẽ rất rụt rè, nhút nhát.

Hoạt động là nhân tố quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Bởi vì : Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ không có hiệu quả nếu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Hay nói cách khác là không có yếu tố hoạt động thì sự hình thành và phát triển nhân cách của chủ thể sẽ không được đảm bảo. 

Ví dụ: Khi trẻ được dạy cho cách viết chữ, nếu trẻ không tập viết thường xuyên thì trẻ sẽ không thể biết viết, hay nói cách khác là nhân tố giáo dục trong trường hợp này không phát huy tác dụng, 

Điều này là hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên hay đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách.

Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, với những công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. 

Ví dụ như hiện nay, các trường tiểu học trong thành phố Hà Nội đang tổ chức mô hình học tập mới: Định kì mỗi hai tháng nhà trường lại tổ chức cho các em học sinh đi tham quan các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Qua hoạt động ngoại khóa này, các em được kích thích hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu, giao tiếp xã hội ….từ đó hình thành nên lòng ham mê lịch sử và yêu thương gắn bó với đất nước mình.

Mặt khác, cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của mình vào việc cải tạo thế giới khách quan. 

Ví dụ: Hoạt động trồng cây gây rừng của các bạn thanh niên hiện nay không chỉ giúp cho môi trường thêm xanh – sạch – đẹp mà còn góp phần cải tạo môi trường đất, giữ đất, chống lũ quét, sói mòn …

Như vậy, khác với động vật, hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức. 

Ví dụ: Động vật khi bị đe dọa, theo bản năng chúng sẽ tự vệ ( như loài nhím sẽ xù lông, loài mực sẽ phun mực), đó là hành động bản năng không có ý thức. Con người khi gặp nguy hiểm sẽ có suy nghĩ để lựa chọn cách hành xử tốt nhất, không gây nguy hiểm cho bản thân cũng như người thân, đó là hành động có mục đích và ý thức. 

Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức. Hoạt động của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của con người với sự vật mà cả trong mối quan hệ với người khác. 

Ví dụ: Giữa con người với con người có mối quan hệ tình cảm và để thể hiện tình cảm của mình họ có thể nắm tay nhau.

“ Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi […]” (Hồ Chí Minh, T12, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr558). Có nghĩ là, con người phải có ý thức rèn luyện nhân cách của mình. Dựa vào việc nghiên cứu năm nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách, có thể kết luận vai trò quan trọng của năm nhân tố đó như sau: Cá nhân hoạt động và giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội, dưới tác động chủ đạo của giáo dục sẽ đưa tới hình thành một cấu trúc nhân cách tương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong cuộc sống nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Vì vậy, con người phải thường xuyên tự rèn luyện nhân cách của mình dựa trên năm nhân tố đó.

Bài viết của em đến đây là hết. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm theo dõi của thầy cô.

  1. Ts. Đặng Thanh Nga (Chủ biên), Giáo trình Tâm lí học đại cương, Trường Đại học Luật Hà Nội, nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
  2. Đào Thị Oanh (Chủ biên), “Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày nay” , nxb. Giáo dục, 2007.
  3. Nguyễn  Đình Đăng Lực , “Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách”, Nxb. Tư pháp, 2005
  4. Bùi Văn Ái, “Các yếu tố hình thành và phát triển nhân cách"

Traloitructuyen.com cũng giúp giải đáp những vấn đề sau đây:

  • Tiểu luận về nhân cách con người
  • Bài tiểu luận về nhân cách con người
  • Tiểu luận sự hình thành và phát triển tâm lý của con người
  • Tiêu luận về sự hình thành và phát triển nhân cách
  • Bài viết về nhân cách con người
  • Tiểu luận về tính cách con người
  • Tiểu luận tâm lý học nhân cách
  • Tiểu luận tâm lý học đại cương

See more articles in the category: Tiểu luận