Ví dụ về công ty liên doanh ở Việt Nam

Khi dùng thanh công cụ trên Google gõ tên “Joint venture” ngay lập tức xuất hiện hàng trăm kết quả khác nhau về cụm từ này. Vậy Joint venture là gì? Mời các bạn cùng theo dõi bài viết để hiểu rõ về thuật ngữ này nhé.

Bạn đang xem: Joint ventures là gì

Joint venture là gì?

Joint venture là gì? là cụm từ nghe có vẻ xa lạ và với mẻ đối với nhiều người nhưng lại khá quen thuộc với những người làm kinh doanh. Joint venture hay còn gọi tên khác là doanh nghiệp liên doanh. Cụm từ này chỉ sự kết hợp làm ăn của hai công ty độc lập cùng nhau hoặc của chính phủ với một công ty.

Nhờ việc liên doanh, nguồn lực lượng lớn sẽ được tập hợp, điều này rất tốt cho việc cung ứng các dịch vụ và hàng hóa. Điểm nổi bật của loại hình liên doanh này là nó tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khai thác nguồn lực. Giải thích cụ thể hơn đó chính là sự phân chia của 2 bên về công nghệ và hiểu biết thị trường sẽ là kết hợp hiệu quả để khai thác nguồn lực.

Ví dụ về công ty liên doanh ở Việt Nam

Một điều bạn cần biết đó là yếu tố quyết định đến mức độ tham gia quản lý và số lợi nhuận nhận được của các Joint venture chính là tỷ lệ góp vốn. Bên nào góp vốn nhiều hơn thì sẽ có quyền quản lý doanh nghiệp nhiều hơn, được hưởng % lợi nhuận cao hơn.

Xem thêm: Hệ Thống M&AmpE Là Gì ? Hệ Thống Công Trình M&E Là Gì? Tìm Hiểu Về Các Hệ Thống M & E Trong Tòa Nhà

Đặc điểm của Joint Venture

Joint Venture hay còn gọi là doanh nghiệp liên doanh có những đặc điểm sau

Joint Venture hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong đó, mỗi bên tham gia sẽ chịu trách nhiệm theo phạm vi hợp đồng ban đầu.Trong cơ cấu pháp định, doanh nghiệp liên doanh lấy vốn từ cả công ty trong và ngoài nước Joint venture hoạt động trên tư cách là pháp nhân của luật pháp nước Việt. Do đó, doanh nghiệp này chịu sự quản lý từ phía luật pháp.

Những ưu điểm và nhược điểm của Joint venture là gì?

Joint Venture hoạt động giải trí dưới hình thức công ty nghĩa vụ và trách nhiệm hữu hạn. Trong đó, mỗi bên tham gia sẽ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm theo khoanh vùng phạm vi hợp đồng bắt đầu. Trong cơ cấu tổ chức pháp định, doanh nghiệp liên doanh lấy vốn từ cả công ty trong và ngoài nước Joint venture hoạt động giải trí trên tư cách là pháp nhân của lao lý nước Việt. Do đó, doanh nghiệp này chịu sự quản trị từ phía lao lý .Bất kể một mô hình kinh doanh thương mại nào cũng đều chứa đựng những mặt ưu và điểm yếu kém. Vậy những mặt ưu và điểm yếu kém của Joint venture là gì ?

Xét về mặt ưu điểm của Joint venture

Nhờ việc hình thành công ty liên doanh mà nó đem lại rất nhiều lợi ích cho cả 2 bên đối tác đó là nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Khi tham gia vào Joint venture, nhà đầu tư Việt Nam có nhiều lợi ích hơn cả. Ngoài những lợi ích từ phân chia lợi nhuận, họ còn được học hỏi rất nhiều kinh nghiệm cũng như tiếp cận khoa học hiện đại. Điều đó được thấy rõ nhất là các nhà đầu tư trong nước học cách thức quản lý kinh tế từ đối tác nước ngoài.

Xem thêm: Counterparty Là Gì ? Đặc Điểm Và Phân Loại Counterparty Là Gì, Nghĩa Của Từ Counterparty

Ví dụ về công ty liên doanh ở Việt Nam

Joint venture có những nhược điểm nào?

Việc hình thành doanh nghiệp liên doanh bên cạnh những ưu điểm đã kể trên thì còn sống sót những điểm yếu kém sau :Các doanh nghiệp nước ngoài đã quen với cách thức làm việc và quản lý hiện đại. Do vậy, nếu muốn sự hợp tác giữa 2 bên được thành công, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải có những chuyên gia giỏi hàng đầu để điều hành công ty.Một trong những trở ngại lớn khi liên doanh chính là sự bất đồng ngôn ngữ. Bên cạnh đó, sự khác nhau về lối sống, phong tục tập quán hay tư duy cũng là yếu tố tạo nên bất lợi khi liên doanh.Khi 2 công ty bắt tay nhau cùng phát triển, đòi hỏi phải có các thủ tục hồ sơ để đảm bảo quyền lợi các bên. Nhưng để hoàn thiện xong các thủ tục hồ sơ này thường khá rắc rối. Các doanh nghiệp quốc tế đã quen với phương pháp thao tác và quản trị tân tiến. Do vậy, nếu muốn sự hợp tác giữa 2 bên được thành công xuất sắc, yên cầu doanh nghiệp Nước Ta phải có những chuyên viên giỏi số 1 để quản lý công ty. Một trong những trở ngại lớn khi liên doanh chính là sự sự không tương đồng ngôn từ. Bên cạnh đó, sự khác nhau về lối sống, phong tục tập quán hay tư duy cũng là yếu tố tạo nên bất lợi khi liên doanh. Khi 2 công ty bắt tay nhau cùng tăng trưởng, yên cầu phải có những thủ tục hồ sơ để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ những bên. Nhưng để hoàn thành xong xong những thủ tục hồ sơ này thường khá rắc rối .

Ví dụ về công ty liên doanh ở Việt Nam

Bài viết của chúng tôi đã giải mã cho các bạn câu hỏi mang tên joint venture là gì? Và một số kiến thức liên quan đến Joint venture. Hy vọng những thông tin chúng tôi đã cung cấp sẽ hỗ trợ cho bạn phần nào khi bạn có ý định kinh doanh.

Mọi thông tin, tin tức xin liên hệ theo địa chỉ bên dưới :

Công ty Cổ phần Tư Vấn và Đầu Tư Bất Động Sản An Khang

Là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng liên doanh hoặc trên cơ sở hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và các nước. Hiệp định ký giữa chính phủ các nước như: Liên doanh Vietsopetro – là Hiệp định được ký giữa Việt Nam và Liên Xô từ năm 1981.

Hợp đồng liên doanh có thể được ký giữa:
(i) Hợp đồng ký giữa các nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam.

(ii) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài: chẳng hạn như công ty Ford của Mỹ liên doanh với doanh nghiệp Sông Công Diesel để hình thành một công ty mới là Công ty TNHH Ford Việt Nam; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm: Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài – ví dụ nếu như Công ty TNHH Ford Việt Nam liên doanh với một công ty khác.

(iii) Doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như các liên doanh ô tô ở Việt Nam (trong 11 liên doanh tham gia hiệp hội ô tô ở VN thì cả 11 doanh nghiệp là doanh nghiệp liên doanh).
Đặc điểm của liên doanh.

(i) Cho ra đời một pháp nhân mới dưới dạng Công ty TNHH. Có nhiều hình thức công ty khác nhau, theo Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thì doanh nghiệp liên doanh và cả doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì chỉ được hoạt động dưới dạng Công ty TNHH, nhưng gần đây Nhà nước đã cho một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài được thí điểm chuyển sang mô hình là Công ty cổ phần. Vì vậy quy định căn cứ theo Luật Đầu tư nước ngoài cũ sẽ thay đổi, mà trong Luật mới sẽ có những quy định khác.

(ii) Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh tối thiểu là 30% vốn đầu tư. Vốn đầu tư của một doanh nghiệp của doanh nghiệp bao gồm vốn pháp định và vốn đi vay, đối với doanh nghiệp liên doanh thì vốn pháp định cũng là vốn điều lệ của doanh nghiệp đó. Như vậy Luật quy định là vốn pháp định tối thiểu là 30% vốn đầu tư còn vốn đi vay tối thiểu là 70%.
(iii) Phần vốn góp của bên nước ngoài tối thiểu phải bằng 30% vốn pháp định. Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đi vay và vốn pháp định và trong phần vốn pháp định phải có tối thiểu 30% vốn góp của bên nước ngoài.

(iv) Quyền tham gia điều hành quản lý phụ thuộc vào mức góp vốn của mỗi bên. Bên nào có vốn góp càng cao thì càng phải có quyền lớn trong việc điều hành liên doanh, theo Luật Đầu tư nước ngoài của VN thì có quy định là nếu liên doanh có hai bên thì mỗi bên phải có ít nhất là 2 thành viên trong Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc phải là công dân của Việt Nam.
(v) Các bên phân chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên.

Ví dụ về công ty liên doanh ở Việt Nam

Theo đà phát triển của nền kinh tế, việc liên doanh giữa các doanh nghiệp (DN) trong nước và các tập đoàn nước ngoài ngày càng nở rộ. Thế nhưng, không phải sự hợp tác nào cũng đạt kết quả như mong muốn và đã có nhiều liên doanh tan rã vì “Đồng sàng dị mộng”!

Chọn người đủ tầm

Liên doanh với nước ngoài là xu thế tất yếu. Đó là nhận định của hầu hết các chuyên gia về xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam khi nước ta mở cửa thị trường. Trong thời gian đầu mở cửa, các đối tác nước ngoài thường “dựa” vào DN trong nước để nhờ giải quyết thủ tục hành chính, giấy tờ. Rất ít các trường hợp liên doanh thật sự mà đối tác tìm thấy “sức mạnh nội lực” của DN Việt Nam. Vì thế, một khi đã đạt được mục đích thì phía đốc tác nước ngoài sẽ kiếm cớ đẩy DN Việt Nam ra khỏi liên doanh và “thâu tóm” công ty. Nếu chúng ta kém cảnh giác thì rất dễ rơi vào tay họ. – một doanh nhân có kinh nghiệm trong liên doanh với nước ngoài cảnh báo.

Ví dụ về công ty liên doanh ở Việt Nam

Để hoạt động của liên doanh “xuôi chèo mát mái”, phần vốn của phía Việt Nam được bảo tồn và ngày càng phát triển, các chuyên gia tư vấn cho rằng, người đại diện cho phía Việt Nam phải là người “có tầm”. Nghĩa là phải có kiến thức quản lý; có trình độ ngoại ngữ; thông hiểu luật pháp (trong nước và quốc tế); phải biết tập hợp tất cả trí tuệ của công nhân viên, kể cả chuyên gia nước ngoài thông qua hoạt động của các tổ chức đoàn thể. Người lãnh đạo phải có chuyên môn vững vàng cộng với tinh thần cảnh giác cao độ, có bản lĩnh để đối phó với nhiều tình huống có thể gây bất lợi cho phía “ta”

Trường hợp của Công ty TNHH Nhà máy Bia Việt Nam (VBL) là một điển hình cho liên doanh thành công. Thành lập năm 1991, VBL là liên doanh giữa Tổng công ty thương mại Saigon (Satra) và tập đoàn Asia Pacific Breweries Ltd. (APBL), có trụ sở tại Singapore, liên kết với Heineken N.V. (Hà Lan). Theo ký kết ban đầu, Satra góp 40% vốn và phía đối tác 60%. Cũng như các liên doanh khác, thời gian đầu, mọi hoạt động của VBL gần như do phía nước ngoài chi phối. Thậm chí, ngay cả Phó tổng giám đốc phía Việt Nam cũng không được tham gia điều hành hoạt động của liên doanh.

Bắt đầu từ năm 2000, khi được điều về nhận nhiệm vụ quản lý đồng vốn Nhà Nước trong liên doanh tại VBL với chức vụ Phó tổng giám đốc, ông Nguyễn Nhất Minh đã yêu cầu thay đổi toàn bộ điều lệ liên doanh. Không chỉ thế, tỷ lệ vốn của phía Việt Nam cũng đã tăng lên 51%. Đội ngũ chuyên gia 18 người nước ngoài đã được thay thế bằng người Việt và hiện tại đã có 12 chuyên gia của VBL là người Việt. Hiện tại, mọi hoạt động của công ty về tổ chức, nhân sự, lao động, tiền lương và các chế độ chính sách khác đều thông qua biểu quyết của hội đồng quản trị.

So với nhiều đối thủ trong ngành bia, VBL là một tên tuổi lớn với 4 nhà máy trong cả nước, sản xuất gần 10 nhãn hiệu bia Heineken, Tiger, Bivina, Amber Stout, Coors Light, BGI, Foster’s, Larue, Larue Export, Larger… Trong đó, bia Heineken và Tiger là hai dòng bia cao cấp được ưa chuộng trong cả nước.

Nhưng, nếu người đại diện cho DNVN không có cái nhìn sắc sảo, không đủ thông tin để nắm vững và phán đoán được tình hình thì cũng dễ gây những thua thiệt cho “phía ta”. Coca Cola và P&G Việt Nam là hai ví dụ điển hình. Sau chưa đầy chục năm hoạt động, hai liên doanh này đã hoàn toàn thuộc về DN nước ngoài.

Và tìm hình thức hợp tác phù hợp

Để việc hợp tác kinh doanh đạt được mục đích và có hiệu quả, ngoài yếu tố con nguời, vấn đề cần cân nhắc đầu tiên là hình thức và và điều kiện hợp tác. Một hợp đồng liên doanh không chặt chẽ và thiếu sự xem xét đến những yếu tố phát sinh có thể dẫn đến những thua thiệt lớn cho DN trong nước. Hiện tại, trong một số trường hợp liên doanh dù vẫn còn hoạt động, nhưng “phía ta” đang gặp không ít khó khăn. Một trong số ấy là mạng di động S-Fone.

Đây là liên doanh giữa Công ty cổ phần Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT) và Công ty SK Telecom (Hàn Quốc). Dự án có thời hạn hoạt động 15 năm (từ 2002 - 2016) với mục tiêu xây dựng hệ thống mạng thông tin di động tại Việt Nam. Chỉ tiêu ban đầu của dự án là cung cấp dịch vụ cho 700.000 đến 1 triệu thuê bao di động CDMA với tổng vốn đầu tư 230 triệu USD. Trong đó, SPT đóng góp các tài sản vô hình (thương quyền kinh doanh dịch vụ thông tin di động, quyền sử dụng tần số, kho số) và 11 triệu USD còn SK Telecom góp 218 triệu USD.

Sau 6 năm cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, S-Fone đang phải đối diện với những thách thức về đầu tư, công nghệ, hạn chế trong các vấn đề pháp lý, vốn đầu tư, cơ chế điều hành từ mô hình BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh)…

Ông Hồ Hồng Sơn - Giám đốc điều hành S-Fone cho biết, S-Fone là một trung tâm trực thuộc SPT nhưng hoạt động theo cơ chế của BCC, nên không được phép vay vốn hoặc kêu gọi đầu tư trực tiếp từ nguồn khác. Trong khi đó, dù thời gian của BCC là đến năm 2016 nhưng đến năm 2005, S-Fone đã triển khai hết các nguồn lực đầu tư và các điều kiện cam kết của hai bên. Muốn có nguồn lực mới để S-Fone tiếp tục phát triển buộc phải có hình thức/thoả thuận hợp tác mới: hoặc là duy trì mô hình BCC có điều chỉnh hoặc là chuyển sang hình thức liên doanh.